"Vẫn biết hợp rồi tan, hoa nở rồi tàn, đời người rồi cũng sẽ kết thúc ở chặn đường cuối cùng trên cuộc hành trình thiên lý xa xôi, vậy mà lòng ta vẫn sầu chia ly. Anh về đâu và tôi về đâu? Hình như định mệnh đã dành sẵn cho mỗi người chúng ta một sân ga để dừng chân. Có ai chờ đón chúng ta bên kia thế giới vô hình không? Hay rồi ta cũng sẽ độc hành trên con tàu thênh thang đi vào hư vô?
Cho dù biết cuộc vui trần thế rồi sẽ tàn, nhưng khi hay Tin nhà thơ, danh hoạ Vũ Hối từ trần vào ngày 19/08/2022, làm cho tôi xúc động, buồn, hụt hẫng và như mất đi một người thân. Những âm thanh, hình ảnh của những tháng năm xa xưa như một đoạn phim ngắn hiện về. Tôi như còn thấy vóc dáng, nụ cười hiền lành, chất phát và chan hoà tình cảm của ông dành cho tôi và gia đình.
Hôm nay, tôi tiễn ông đi bằng những dòng thương tiếc và để ghi nhớ lại một người tù cải tạo đã bị cộng sản còng tay chân biệt giam trong sà lim tăm tối và họ đã hành hạ, đánh đập ông mù một mắt. Suốt một đời sống tha hương trên xứ lạ, quê người, ông vẫn giữ tấm lòng yêu quê hương son sắc, ông luôn khao khát, tiếc nuối về một giấc mơ được trở lại sống trên quê hương Việt Nam yêu dấu trong tự do, dân chủ….. "
Nhà văn Phong Thu
Maryland 21/08/2022
Các anh chị em trong Câu lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris rất xúc động khi nhận được tin buồn về ra đi vĩnh viễn của danh thi họa Vũ Hối, vì ông là người đã nhiều lần qua Paris sinh hoạt văn học nghệ thuật với chúng tôi. Ngoài tài năng xuất chúng ông còn có một tâm hồn bao dung nhân ái, luôn chan hòa với bằng hữu. Khi chúng bắt đầu thực hiện cuốn Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Hải Ngoại vào đầu năm 2018, trong danh sách hàng trăm Nhân Vật nổi tiếng vang bóng một thời có một số người bị dư luận đàm tiếu khiến chúng tôi phải thảo luận rất lâu để chọn đưa vào sách. Do đó chúng tôi rất cần những ý kiến khách quan ở các địa phương góp ý, trong đó có danh thi họa Vũ Hối. Tôi điện thoại qua Mỹ hỏi ý kiến của ông vì ông là người quen biết rất nhiều nhân vật nổi tiếng trước và sau năm 1975 hiện có trong danh sách tuyển.
Ông nói:"Mặc dù những người bị dư luận đàm tiếu vì những bài viết hoặc những hành động của họ, nhưng đó chỉ là ý kiến cá nhân hay phe nhóm. Nhưng cuốn sách này phải vượt qua những dư luận những thành kiến để cố gắng đạt được mức độ công tâm, vì những người bị đàm tiếu có trong danh sách lại đóng góp quá nhiều cho văn hóa."
Tôi xin gởi một kỷ niệm về ông qua bài viết được ban biên tập tuyển chọn đưa vào sách.
Trước tiên chúng tôi rất vui là nhà báo Hoài Thanh, Nhà văn Phong Thu đã xác nhận in và phát hành cuốn sách NKMVHVNHN ở Mỹ.
Qua điện thư và gặp gỡ các Anh Chị: TS Phượng Anh, Nhà thơ Nguyễn Phan Ngọc An, BS Nguyễn Tối Thiện, GS Nguyễn Văn Sâm, BS Nguyễn Bá Linh, Nhà văn Khổng Thanh Hương, GS Nguyễn Bảo Hưng, GS Trần Văn Cảnh, tất cả đều có chung cảm nghĩ rất đẹp về cuốn sách. Như anh Bá Linh đề nghị kể lại những buồn vui trong lúc thực hiện sách. Nhân dịp tôi xin nói thêm và chia sẻ cùng các anh chị ít chuyện vui trong thời gian thực hiện cuốn sách:
Điều vui trước tiên là tất cả những anh chị trong ban biên tập đã đặt trách nhiệm lên trên sự tự ái cá nhân nên cuốn sách đã in ở Paris, và sắp ra mắt.
- Trong số những tác giả được vinh danh có nhiều vị là Nhà thơ. Vì số bài thơ gởi đến số lượng không đều, nhưng lại quá nhiều không thể đăng hết, chúng tôi quyết định chỉ đăng Tểu Sử của nhà thơ vì các tác giả đó quá nổi tiếng.
Mới đây, hôm 21 tháng 5 năm 2022 tôi có đến thăm giáo sư Trần Văn Cảnh và thông tin về tình trạng cuốn sách. Anh Cảnh có hỏi tôi một số điều:
Trần Văn Cảnh:
"Sự Khác Biệt Giữa cuốn NKMVHVN Paris và NKMVHVN Hải Ngoại?"
Đỗ Bình:
"Ở hải ngoại có nhiều người làm văn hóa chúng ta dù có cố gắng nhưng vẫn không thể đưa hết vào sách vì không liên lạc được với các tác giả nên thiếu tài liệu! Hai cuốn sách mà chúng ta đã và đang thực hiện đều vinh danh những người đã có công bảo tồn, phát huy văn hóa Việt Nam ở hải ngoại.
Ở Pháp, Paris nói riêng có rất nhiều người làm văn hóa, họ sinh hoạt chung với chúng ta nhưng không phải là thành viên CLB.
Cuốn Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Paris là do CLB thực hiện, mà anh là chủ bút bắt đầu từ năm 2015 và hoàn tất năm 2017. Tất cả những Vị được đưa vào sách đều là những nhân vật văn hóa nổi tiếng ở Paris và là thành viên của CLB VHVN Paris, mà tôi là người sáng lập nên muốn cùng các anh chị em vinh danh các vị Thày đó.
Cuốn NKMVHVN Hải Ngoại bắt đầu từ 2018 hoàn tất 20022, viết về những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, và vinh danh Những tác giả nổi tiếng ở hải ngoại đã tận tụy phụng sự văn hóa dân tộc, như: giáo sư, học giả, nhà hoạt động văn hóa, nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật, những văn nghệ sĩ nổi tiếng. Những tác giả được vinh danh trong sách sẽ không giới hạn quốc gia, địa phương, hay hội đoàn, nhưng tất cả đều được sự đề cử và đóng góp ý kiến của những người sinh hoạt trong giới văn hóa ở các địa phương.
Sách gồm 5 Chương: Những Sinh Hoạt Văn Hóa Ở Hải Ngoại, Biên Khảo, Sáng Tác, Nhận Định Phê Bình, và Tiểu Sử Tác Giả".
Tiến trình thực hiện:
Sau một thời gian dài thảo luận sôi nổi chúng ta đã tuyển chọn một danh sách các tác giả được vinh danh, và đề nghị ban biên tập viết nhận định phê bình về một vài tác giả trong danh sách. Sau đó mời các tác giả có tên trong danh sách viết về những tác giả khác cũng trong danh sách. Bài viết không dài quá 20 trang.
Vào Thực Hiện:
Nhà văn Hồ Trường An nhận viết về 3 tác giả: Nhà văn Mai Thảo, Nhà văn Trần Long Hồ, Nữ sĩ Vi Khuê.
GS Trần Văn Cảnh nhận viết về 5 tác giả: Nhà văn Hồ Trường An, GS Nguyễn Văn Sâm, GS Vũ Khắc Khoan, Nhà văn Mai Thảo, Nhà văn Bình Nguyên Lộc.
Nhà thơ Đỗ Bình nhận viết về Nhà Thi Họa Vũ Hối, Nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật, Sự Thăng Trầm của Nhạc Vàng.
GS Nguyễn Văn Sâm nhận viết một sáng tác văn chương: Ông Đạo Chuối.
GS Nguyễn Bảo Hưng viết một sáng tác mang tính biên khảo về Nhạc phẩm Xóm Đêm của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.
GS Phạm Thị Nhung viết về chân dung và tác phẩm của GS Học giả Lê Hữu Mục.
Chân dung nữ Nghệ sĩ, GS Bích Thuận.
GS Nguyễn Đăng Trúc viết về biên khảo.
GS Lê Mộng Nguyên viết về biên khảo.
GS Nguyễn Song Thuận trước khi mất gởi bài biên khảo.
GS Nguyễn Văn Nhiệm trước khi mất gởi bài biên khảo.
GS Trần Quang Hải trước khi mất gởi một bài biên khảo.
TS Trần Bích San trước khi mất gởi bài biên khảo.
BS Nguyễn Bá Hậu trước khi mất gởi bài biên khảo.
Nhà biên khảo Nguyễn Đức Tăng viết một bài biên khảo.
Nhà văn Song Nhị viết chân dung Nữ sĩ Vi Khuê.
BS Nguyễn Tối Thiện viết một bài biên khảo.
GS Hoàng Đức Phương viết một bài biên khảo.
TS Phạm Trọng Chánh một bài biên khảo..
Luật gia Đoàn Trần Thiều viết một bài sinh hoạt văn hóa.
Nhà văn Vương Trùng Dương viết 2 chân dung tác giả & tác phẩm: Nữ sĩ Nguyễn Thị Vinh, Nhà thơ Hoàng Anh Tuấn.
Nhà văn Từ Thức viết chân dung Nhà báo Nguyễn Ngọc Linh.
TS Liễu Trương viết chân dung và tác giả Nhà văn Dương Nghiễm Mậu.
Nhà phê bình Thụy Khuê viết chân dung và tác giảNhaà thơ Thanh Tâm Tuyền.
Nữ sĩ Trương Anh Thụy viết chân dung và tác phẩm GS Học giả Nguyễn Ngọc Bích.
Nữ sĩ Nguyễn Thị Ngọc Dung viết chân dung và tác phẩm Học giả TS Trần Bích San….
Tất cả những chân dung tác giả và những bài biên khảo theo chủ đề đều được chúng ta yêu cầu viết, và các tác giả đã gởi đến. Còn nhiều tác giả nổi tiếng khác ở Mỹ, Canada, Úc và Âu châu đã gởi bài đưa vào sách nhưng không kể ra ở đây.
Viết một bài tiểu luận giá trị về một Tác giả và Tác phẩm rất khó, muốn viết một bài giá trị phải mất nhiều thời gian. Những giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn mà tôi liên lạc được ở hải ngoại đa số đều cao tuổi nên đã từ chối viết nhận định phê bình. Các vị đó chỉ muốn gởi bài về chuyên môn biên khảo, theo yêu cầu.
Sau gần một năm liên lạc với Nhà văn Nhật Tiến lúc ông còn sinh thời để mời ông góp mặt trong cuốn sách, và xin ông viết một số nhận định về các tác giả. Nhà văn Nhật Tiến đã nhiệt tình tặng những bài nhận định ngắn của ông viết về Những Nhà Văn Khuất Núi cho chúng ta toàn quyền sử dụng đưa vào sách.
Riêng nhà phê bình Thụy Khuê, gởi 3 bài biên khảo và phê bình, nhưng tôi yêu cầu chị bài viết về Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi nói với chị:"Đây là bài viết độc đáo vì đã đưa các trường phái hội họa Tây phương vào câu chữ thơ, để minh họa ẩn dụ. Phải có kiến thức uyên bác văn học Đông Tây và am tường nền hội họa Tây phương mới có được nhận định này. Một trăm năm nữa cũng chẳng có ai viết về Thanh Tâm Tuyền hay hơn bài của chị, vì những ý tưởng hay đã được viết.".
Tôi được Học giả, BS Trần Văn Tích ở Đức gởi tặng cuốn tạp chí Văn Học Nghệ Thuật: Văn Học Mới số 6 tháng 3 năm 2020, quy tụ nhiều cây bút nổi tiếng viết về chủ đề : Nhà văn, Nhà thơ, Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. Tôi chuyển cuốn tạp chí cho các bạn trong Câu Lạc Bộ đọc. Sau khi đọc xong một số anh chị đề nghị xin bài viết của BS nhà văn Ngô Thế Vinh, Nhà nghiên cứu Phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh, và Học giả, BS Trần Văn Tích, GS Nguyễn Văn Sâm. Các anh Trần Văn Tích, Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Vy Khanh trong nhóm Chủ Trương, đã có tên trong danh sách vinh danh và đã gởi bài viết ngay từ đầu.
Riêng Nhà văn BS Ngô Thế Vinh có tên trong danh sách vinh danh, chúng ta đã phôn liên lạc nhưng không được, do đó không thể đưa bài viết của Nhà văn Ngô Thế Vinh vào sách! Cuối cùng chúng ta quyết định đưa Tiểu Sử của Nhà văn Ngô Thế Vinh và Nhà văn Nguyễn Đình Toàn vào sách. Trong thời gian ấy, chị Liễu Trương, một TS về Phân Tâm Học và Phê Bình Văn Học, viết một bài nhận định văn học về Nhà văn Nguyễn Đình Toàn, bài viết quá hay, tôi đề nghị đưa bài đó vào sách, chị nói bài vừa mới viết xong, chị muốn đưa bài về nhà văn Dương Nghiễm Mậu, mà tác giả Dương Nghiễn Mậu nằm trong danh sách vinh danh nhưng chưa có tác giả nào viết nên tôi đồng ý ngay.
Trong thời gian thực hiện sách có nhiều thay đổi về người viết, về chân dung các tác giả:
Giáo sư Trần Văn Cảnh hỏi tôi:
"Theo anh, tôi nên viết về những tác giả nào ?"
Đỗ Bình:
"Ở cuốn NKMVHVN Paris anh đã viết về hai vị bậc thầy là GS BS Nguyễn Văn Ái và BS Nguyễn Bá Hậu vì các vị đó gần gũi chúng ta, có gì thắc mắc hỏi được. Cuốn Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Hải Ngoại có nhiều Tác giả và có nhiều người viết nổi tiếng, theo tôi anh cũng nên chọn những tác giả quen biết gần gũi để dễ hỏi những điều cần thiết cho bài viết, chẳng hạn như Nhà văn Hồ Trường An, Nhà văn Nguyễn Văn Sâm".
GS Trần Văn Cảnh cùng tôi xuống tỉnh Troyes để anh hỏi trực tiếp nhà văn Hồ Trường An, để ghi thép thu thập những tài sống về tác giả Hồ Trường An. Anh Cảnh cũng làm điều này, ghi chép thu thập những lời phỏng vấn trực tiếp với GS Nguyễn Văn Sâm, khi anh Sâm qua Paris nghiên cứu Chữ Nôm ở các thư viện quốc gia Paris và chúng ta đã tổ chức cho GS Nguyễn Văn Sâm diễn thuyết, và nhà văn Trần Thị Ngọc Ánh ra mắt sách ở Paris.
Dưới cái nhìn của các anh chị em trong CLB VHVN Paris về hai tác giả này:
Anh Hồ Trường An là một trong những nhà văn lớn ở hải ngoại. Lý do: Anh đeo đuổi nghiệp văn chương hơn 60 năm, có gần 100 tác phẩm gồm Biên khảo, Phê bình, Thơ, Tiểu thuyết Truyện dài mang tính xã hội, với chất văn độc đáo «dân quê miệt vườn» miền Nam.
Anh Nguyễn Văn Sâm, là một giáo sư độc nhất về Chữ Nôm ở hải ngoại và là người đeo đuổi nghiên cứu Chữ Nôm đã hơn 60 năm. Anh còn là một nhà văn viết tiểu thuyết truyện dài mang chất Miền Nam, nhưng thuộc lớp người thị thành: Sài Gòn, Cần Thơ…
Đơn cử, những nhà văn ở hải ngoại trong văn chương có tính Miền Nam, miệt vườn: Cố nhà văn An Khê, (Marseille, Pháp), Cố nhà văn Nguyễn Văn Ba (Canada), Cố nhà văn Nguyễn Văn Nhiệm ( Đức), Nhà văn Hồ Trường An, Nhà văn Nguyễn Văn Sâm, Nhà văn Tiểu Tử (Paris), Nhà văn Võ Kỳ Điền,...
Sau khi chúng tôi trở về Paris, nhà văn Hồ Trường An gọi phôn hỏi tôi:
"Anh Cảnh là một giáo sư về Quản Trị Xí Nghiệp, lại chuyên viết về Công Giáo. Anh không có nhiều sách về Hồ Trường An; Ông nghĩ anh Cảnh có thể viết được về tôi không?"
Đỗ Bình:
"Tôi sẽ đưa thêm tài liệu và số sách của anh cho anh Cảnh mượn đọc."
Hồ Trường An:
"Tôi là người lưỡng tính (Bisexsuel), trong văn của tôi cũng có chất đó, anh Cảnh làm sao biết được lúc nào là nam, lúc nào là nữ!".
Tôi nói điều này với anh Cảnh, anh cảm thấy quá khó khăn nên không viết nữa.
Đối với giáo sư Nguyễn Văn Sâm để viết một chân dung và tác phẩm giá trị rất khó, vì thiếu nhiều tài liệu, do đó giáo sư trần Văn Cảnh thảo luận với ban biên tập xin không viết về tác giả Nguyễn Văn Sâm, và thay thế bằng một tiểu sử, vì tự nó cũng nói đủ về GS Sâm.
Đối với Nhà văn Mai Thảo cũng không đủ tài liệu nên BBT yêu cầu anh Cảnh không viết, mà chỉ viết về nhà văn Bình Nguyên Lộc và GS Vũ Khắc Khoan vì có đủ tài liệu.
Còn nhà văn Hồ Trường An sau khi đã nhận lời viết về các tác giả trên. Anh đã trích các tác giả đó trừ trong sách của mình. Nhưng sau đó thay đổi sửa chữa nhiều lần như các anh chị đã biết. Vì anh ngại bị so sánh với các nhà phê bình khác ở trong sách như Nguyễn Thùy, Nguyễn Hưng Quốc, Thụy Khuê, Trương Liễu, Nguyễn Vy Khanh…. Cuối cùng anh xin bỏ hết những bài về các tác giả và xin thay bằng bài Giới Tính, vì đề tài này là độc nhất không ai viết. Sau khi anh mất BBT đưa thêm bài về Mai Thảo.
Có một số Tác giả vì không tìm được người viết nhận định nên chúng tôi thay thế bằng Tiểu Sử. Vinh danh bằng một Bản Tiểu Sử chúng tôi quan niệm tự nó đã đầy đủ ý nghĩa về quá trình sinh hoạt của tác giả.
Ở trong sách có nhiều tác giả làm văn hóa, vì không liên lạc được nên chúng tôi đưa Những Tên, bút hiệu của tác giả đó vào sách Như Một Sự Vinh Danh.
Chúc các anh chị và gia đình luôn bình an và nhiều sức khỏe.
Khách mời tham dự là những khuôn mặt trí thức quen thuộc trong giới Văn Hóa Việt Nam Paris.
Mở đầu chương trình BS Nguyễn Bá Hậu, vị niên trưởng, cựu chủ tịch CLBVHVN Paris, ông tường trình sơ lược về sinh hoạt văn hóa của CLB trải qua một khoảng thời gian dài mấy thập niên:
"Chúng ta sống ở hải ngoại đã 40 năm. Về vấn đề văn hóa, tôi xin chia làm hai mức: hai mươi năm đầu, Ba Lê Thi Xã (BLTX) gồm những nhà thơ lão thành khoa bảng, những nhà trí thức ở Việt Nam di cư sang Âu Châu, rất nổi tiếng về thơ Đường, nhưng bây giờ tuổi đã quá cao, họ chết gần hết chỉ còn lại một vài người thôi như nhà thơ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà thơ Quỳnh Liên Cao Văn Chiểu, tôi, và Đỗ Bình là người trẻ nhất. Chúng tôi cũng nghĩ xa là BLTX sẽ thiếu hội viên vì họ qua đời cả, sẽ có ít người làm thơ Đường nên chủ trương thành lập CLBVH mà chúng ta được họp mặt sinh hoạt như bây giờ. Hơn hai mươi năm nay rồi, CLBVH mở rộng tầm hoạt động ra đủ thể loại: thơ, thơ tự do, văn, nhạc, hội họa… để các nghệ sĩ khác đều được tham dự. Nếu muốn tìm hiểu về BLTX ở giai đoạn thứ nhất thì tôi biết được nhiều, sẽ cố vấn cho những ai muốn biết, còn về CLBVH ở giai đoạn thứ nhì thì ai cũng biết rồi, nó dễ hơn.
Bác sĩ Phan Khắc Tường, chủ tịch Câu Lạc Bộ ngỏ đôi lời:
"Chúc mừng quý quan khách và các bạn một năm mới nhiều hạnh phúc và sức khỏe. Tôi ước mong: Sẽ có những buổi họp mặt để chúng ta được dịp hội thảo, hàn huyên trao đổi văn hóa...".
Nhà thơ Đỗ Bình cựu chủ tịch CLB, cũng là MC trong chương trình, cho biết những dự định của CLB trong tương lai sẽ tổ chức giới thiệu những buổi ra mắt sách trong đó có Nhà văn Toàn Phong Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, Nhà văn Nguyễn Hữu Nhật, Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, Học giả BS Trần văn Tích…v.v..
Mở đầu phần thảo luận: Ý Nghĩa Cuộc Sống Của Loài Người, nhà thơ Đỗ Bình đã đặt câu hỏi:
- Theo những tài liệu được ghi lại trong sách, trái đất được hình thành từ Tinh Vân Mặt Trời cho đến nay khoảng 4,54 tỷ năm. Con người xuất hiện trên trái đất rất từ 250 ngàn năm, nhưng Ai sinh ra ta con người?.
BS Nguyễn Bá Hậu xin phát biểu trước:
" Theo tôi đây là một đề tài rộng lớn.Con người là một thành phần của vũ trụ. Muốn biết ai sinh ra ta thì ta phải biết ai tạo dựng ra vũ trụ hay là vũ trụ được tạo dựng như thế nào?... Và mọi sự xảy ra trong vũ trụ đều là huyền bí... Những người theo Thiên Chúa giáo nhờ có Thánh kinh mà biết được nguyên nhân làm ra những điều huyền bí về việc tạo dựng vũ trụ..." (Sách Sáng Thế- Genèse).
Nói về tôn giáo tín ngưỡng là nói về Đức Tin, đó là theo quan niệm của mỗi người, do sự dạy dỗ và truyền thống đã có sẵn trong gia đình hay do sự tìm hiểu riêng biệt của mỗi cá nhân. Giáo sư Trịnh Khải giải thích rằng:
" Theo Hippocrate le Grand (460-370 trước J-C): Từ lúc sinh ra, con người chúng ta lúc nào cũng có thể nhiễm mọi thứ bệnh. Và bệnh tật là con đường hay phương tiện dẫn đến cái chết. Trong lúc học hỏi hay mong chờ sự giúp đỡ bên ngoài, con người thật vô dụng. Trong lúc đang lớn, nó vừa yếu vừa thiếu đức hiền". Theo Blaise Pascal (1623-1662): Nếu có Trời, Người sẽ vô cùng tận không thể hiểu được đối với kẻ phàm tục. Vì không thể đo lường, không có kích thước, Người không có dính dáng gì đến chúng ta. Chúng ta không có khả năng để biết Người là thế nào, kể cả Người có thật không. Sự thật là thế, ai có thể giải quyết câu hỏi trên? Chắc chắn không phải chúng ta vì chúng ta phàm tục chẳng có bang giao gì với Người. Đức Phật lại nói rằng: "Tất cả sinh đều đi đến tử" từ vạn vật cho đến các ngôi sao sáng trên vòm trời rồi cũng sẽ tan rã. Và "Trong sự sinh, sống, lão, tử của con người không có thánh thần nào can dự vào..."
BS Nguyễn Bá Hậu đáp lời Giáo sư Trịnh Khải:
"Quan niệm về Phật học khác với Công Giáo. Theo Công giáo con người ta có hai phần là phần xác và phần hồn. Nói về đau khổ, phần xác không lâu dài chỉ có trên 80 năm là hết, còn phần hồn là vĩnh cữu. Vậy con người ta sống ở đời này đều tạm bợ cả. Tạm bợ để thử thách xem giá trị của linh hồn mình ra sao. Muốn thử thách phải có đau khổ. Có đau khổ mà mình thắng được, giữ cho linh hồn trong sạch thì mới được vinh quang đời sau". Sau khi đọc bài tôi viết, có nhiều người hỏi tôi rằng: " Nếu Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa thì tại sao ta không nhìn thấy mặt Thiên Chúa, làm thế nào mà tin được?"
Nhà thần học TS Nguyễn Tấn Phước cho rằng:
"Tại sao ta không thấy Thiên Chúa nhưng ta lại tin Ngài? Tất cả những điều đó qui tụ trong sách Sáng Thế, khi xưa trong Vườn Địa Đàng, Thiên Chúa đối với ông Adong và bà Evà như trong một gia đình, nhưng từ khi có tội tổ tông và tội bất phục tùng. Tổ tiên ta đã bị kết án bởi nguyên tội và tội lỗi ban đầu dẫn đến bị tước đoạt con người nhìn thấy Thiên Chúa. Tại sao có đau khổ? Vì tội lỗi ban đầu mà Thiên Chúa lên án con người. Người đàn ông phải chịu đau khổ để tồn tại và người phụ nữ phải chịu đau khổ để sinh con, chia sẻ giữa các thế hệ, tội lỗi được truyền đạt cho nhân loại. Sự đau khổ theo loài người cho tới chết tất nhiên luôn luôn một mình. Tất cả mọi người được sinh ra một mình, chịu đựng một mình và chết trong cô đơn ..."
Bà TS Từ Thu Hương góp một vài cảm nghĩ về ý nghĩa cuộc sống của những người ngoại đạo:
"Không theo một tôn giáo nào, chỉ tự tạo cho mình một ý nghĩa riêng biệt mà họ cho là phù hợp với nếp sống của họ như đại đa số người tích cực đóng góp vào công cuộc xây dựng hạnh phúc gia đình; những nhà từ thiện tìm kiếm phương tiện để trợ cấp, cứu giúp người nghèo đói khổ đau; giới y dược chữa trị bệnh nhân, khảo cứu y khoa để khắc phục các chứng bệnh nan y... Rất nhiều trường hợp của biết bao người theo đuổi những ý nghĩa tốt đẹp ở trên đời tựu chung là đi tới lòng thương yêu gia đình, đồng loại... Ngược lại, cũng có những người theo đuổi ý nghĩa đời sống của họ trong những ước muốn xấu xa như tham lam vật chất, tiếm đoạt của cải... Trường hợp của nhà thơ Charles Baudelaire (1821-1867) chọn sự sống sa đọa đam mê tửu sắc diễn tả trong tập thơ "Les Fleurs du Mal". Theo Baudelaire, trong thâm tâm của mỗi người lúc nào cũng có sự hiện hữu của hai đòi hỏi trái ngược: sống khắc khổ lành mạnh theo điều răn của Thiên Chúa hay sống dễ dàng trong lạc thú tội lỗi như quỷ Satan. Đời sống của nhà thơ này bị ray rức giữa an lạc tâm hồn và khổ đau nhức nhối. Rút cục ông bị rơi vào con đường sa ngã bùn lầy vì ông chỉ thấy cái đẹp trong sự đồi trụy..."
Linh mục Nguyễn Văn Hội thuật lại một buổi nói chuyện trao đổi với một vị tu hành Phật giáo và sau khi xem một vài quyển sách liên quan đến Phật giáo đã có đôi dòng suy tư về ý nghĩa của hoa sen cùng việc giải thoát của con người. Linh mục phát biểu:
"...Sen mọc lên từ bùn. Mà bùn thì hôi tanh, dơ bẩn. Thế nhưng dù trong bùn, sen cũng không bị nhiễm cái hôi tanh của bùn, trái lại sen vẫn đẹp rực rỡ thơm ngát. Theo giáo lý Phật giáo, điều hệ trọng để có thể giải thoát là ở việc hướng về Tâm, làm chủ được Tâm và chuyển hóa Tâm. Bởi vì Tâm là Phật. Mỗi người cần phải tự mình cố gắng vươn lên, tu luyện làm cho Phật tính nơi mình lớn dần lên từng ngày, để thoát khỏi những gì là "hôi tanh" của cuộc đời, của thân phận con người, giống như hoa sen vươn lên khỏi mặt nước thoát cảnh bùn nhơ để trở thành thơm tho, tinh khiết. Theo giáo lý Công giáo, việc giải thoát khởi đầu bằng việc Ngài xuống trần gian qua mầu nhiệm Nhập Thể, mang thân phận con người và sau khi chịu chết trên thập giá, Ngài đã lên trời về nơi vĩnh hằng nhưng điều đặc biệt là Ngài không lên một mình mà kéo theo mình tất cả những ai tin vào Ngài..."
TS Võ Hùng Anh phát biểu:
"Theo một tài liệu vừa thu thập: "Về căn bản tín ngưỡng tôn giáo, chúng ta không có cách nào có thể so sánh Phật Giáo với Kitô Giáo được. Lý do rất đơn giản, vì Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ, mà trí tuệ thì không thể tách rời “Lý Trí” [Reason]. Đại Học Vạn Hạnh trước đây có “motto”: ‘Duy Tuệ Thị Nghiệp’. Còn Kitô Giáo thì ai cũng biết đó là tôn giáo của “Đức Tin” [Faith]. Vậy thì trước hết chúng ta cần phải biết định nghĩa của Đức Tin và của Lý Trí.
Theo H. L. Mencken thì “Đức tin có thể định nghĩa ngắn gọn như là một niềm tin phi lý vào những gì không chắc chắn xảy ra (Faith may be defined briefly as an illogical belief in the occurrence of the improbable.) Còn theo Tự Điển thì “Đức Tin là sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực” [Faith is the firm belief in something for which there is no proof].
Trong tự điển có 2 định nghĩa của Lý Trí: “khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý hoặc phân biệt” (The capacity of rational thought, inference, or discrimination), và “suy xét đúng, phán đoán hợp lý” (Good judgment, sound sense)”.
Nhà văn Đỗ Bình:
- Trong Ý Nghĩa về Cuộc Sống của Loài Người, các vị đã nói đến Đức Tin, Cái Tâm; Phật Tính, và những người không theo một tôn giáo nào mà chỉ tự tạo cho mình một ý nghĩa riêng biệt phù hợp với nếp sống của họ, nhất là nói về ý nghĩa của hoa Sen, xin hỏi: Thế nào là Thiền ?
Giáo sư Trịnh Khải trả lời câu hỏi của nhà văn Đỗ Bình:
"Nếu tìm hiểu đến tận nguồn gốc, ta có thể hiểu cuộc đời Đức Phật chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn cuộc sống gia đình, giai đoạn đi tầm Đạo để tới tột đỉnh về Thiền Yoga, giai đoạn thứ ba nhờ nắm vững phương thức Thiền Yoga, Đức Phật tìm ra phương thức Thiền Đạo Phật để đi đến Niết Bàn rồi đến Giác Ngộ. Có hai lối Thiền là Hatha Yoga và Raja Yoga...".
Nhà thần học Nguyễn Tấn Phước cũng cho biết thêm có một lối Thiền của Nhật Bản là Thiền Tọa.
Tiếp theo phần phát biểu của Giáo sư Nguyễn Quang Riệu.
Giáo sư Nguyễn Quang Riệu, nguyên là Giám đốc Nghiên cứu danh dự Trung tâm Quốc gia nghiên cứu Khoa học Pháp (CNRS), Đài Thiên văn Paris. Chuyên gia về Thiên văn vô tuyến và các chất hữu cơ trong vũ trụ. Năm 1973, ông đã được giải thưởng của Viện hàn lâm khoa học Pháp cho công trình nghiên cứu Cygnus X3 trong chùm sao Thiên Nga (Cygnus), cách trái đất 30.000 năm ánh sáng. Ông còn là tác giả nhiều tác phẩm thiên văn học bằng Việt ngữ như: Vũ trụ-Phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại, Lang thang trên dải Ngân Hà, Sông Ngân khi tỏ khi mờ, Bầu trời tuổi thơ v.v.. Con Người Đối Mặt Với Vũ Trụ (l'Homme face au Cosmos) . Giáo sư Nguyễn Quang Riệu bằng một giọng nói nhỏ nhẹ, trầm ấm:
"Tôi xin mượn mấy lời của nhà văn học Pháp Henri Poincaré: "La pensée n'est qu'un éclair au milieu d'une longue nuit. Mais c'est cet éclair qui est tout". Tôi tạm dịch: "Tư duy chỉ như một tia chớp trong cả một đêm dài. Nhưng chính tia chớp này là tất yếu". Dù tia chớp không có ý nghĩa gì cả nhưng chính là con đường mình phải đi còn thật dài. Không có tia chớp này thì nhân loại không tiến được. Ngoài mắt thường ta nhìn thấy, còn có những ánh sáng mà mắt ta chỉ nhìn thấy được một phần rất nhỏ trong phổ điện từ như: tia bức xạ gamma, quang tuyến X, tia tử ngoại ultraviolet, tia hồng ngoại infrarouge… được ứng dụng vào các ngành y tế, hóa học, vật lý, xây dựng, dầu khí, cơ khí v.v.
Do đó, các nhà thiên văn phải làm ra kính thiên văn như: kính thiên văn quang học (optical téléscope), kính thiên văn radio (radio téléscope) hay ăng-ten ra-đa… để thu được các bức xạ vô tuyến và nhìn thấy được chi tiết các thiên thể trên trời. Khởi đầu Vũ trụ là một hạt cực kỳ nhỏ và nóng đặc, thuộc về một môi trường "chân không lượng tử" (vide quantique), khoảng chân không này không phải hoàn toàn trống rỗng mà là nơi có những hạt ảo (particules virtuelles) xuất hiện đột biến bất thường. Sự chuyển động trong chân không của những hạt ảo này sản sinh ra rất nhiều năng lượng để tạo nên một lực đẩy vô cùng mãnh liệt làm Vũ trụ bỗng phình ra khoảng 10-35 giây sau Vụ Nổ Lớn (Le Big Bang). Hiện tượng lạm phát (phénomène d'inflation) này chỉ kéo dài trong vòng 10-3giây nhưng đã làm thể tích Vũ trụ tăng lên 1078 lần trong vòng một mili giây! Để so sánh, sau thời đại lạm phát, thể tích của Vũ trụ chỉ tăng lên có 109 lần trong suốt 13,82 tỷ năm tuổi. Sau khi Vụ Nổ Lớn diễn ra, nhiệt độ tăng lên vô cùng nóng tạo điều kiện cho electron bị tách ra khỏi hạt nguyên tử và khuếch tán photon (ánh sáng) ra tứ phía làm Vũ trụ nguyên thủy mờ đục. Phải đợi đến khoảng 400.000 năm sau, nhiệt độ nguội dần xuống tới khoảng 3.000 độ K, các electron lúc đó mới tái hợp được với ion và Vũ trụ không còn bị electron tự do khuếch tán nên trở thành trong sáng. Như vậy, giải thích sự hình thành và phát triển của Vũ trụ được tạo ra từ một Vụ Nổ Lớn.
Những mô hình vũ trụ mô tả nguồn gốc và sự tiến hoá của Vũ trụ đã được xây dựng trên những kết quả quan sát thiên văn và những lý thuyết vật lý phức tạp. Sở dĩ những điều kiện tự nhiên trong Vũ trụ nguyên thủy được điều chỉnh tinh tế, nên có các nhà khoa học nảy ra ý kiến là có sự can thiệp của một thực thể tương tự như một Đấng Sáng tạo. Hiện tượng này tỏ ra thích hợp với tư tưởng của những tôn giáo độc thần, như Kitô giáo, Do thái giáo và Hồi giáo. Ngược lại, khái niệm sáng tạo không phù hợp với tư tưởng Phật giáo. Đạo Phật được coi là một tôn giáo không có Thượng đế, thậm chí chỉ là một thuyết triết học. Phật tử phải sống theo đạo lý của Phật giáo để được giác ngộ và thoát ra khỏi vòng luân hồi liên miên đầy đau khổ. Theo Phật giáo, Vũ trụ không có khởi điểm và cũng không có kết thúc. Tư tưởng này hoà hợp với thuyết đa vũ trụ, cho là có nhiều vũ trụ bong bóng vĩnh hằng và bất di bất dịch, không trải qua trạng thái nóng đặc của thuyết Vụ Nổ Lớn. Tuy nhiên, tín ngưỡng là lòng tin thâm thúy của mỗi người và không cần phải được biện hộ bằng những chứng cứ khoa học. Tôn giáo và khoa học đi theo những con đường song song với nhau mà không bao giờ gặp nhau".
- Mỗi người mỗi ý nghĩ, tựu trung đều đưa ra nhiều thắc mắc, khoa học và tôn giáo có liên quan với nhau hay không?
GS Nguyễn Bảo Hưng phát biểu:
"Khoa học giải thích cho chúng ta biết sự hình thành và phát triển mà sinh ra mọi vạn vật nhưng hạt nhân do từ đâu ra? Tôn giáo và khoa học là hai con đường song song cùng nhau. Là một nhà nghiên cứu khoa học có bao giờ GS bước sang lĩnh vực tôn giáo để đặt vấn đề khoa học nghĩ rằng tôn giáo mang một dạng khác?".
Giáo sư Nguyễn Quang Riệu trả lời:
"Cái đó thuộc về lĩnh vực Neurologie để cho người ta nghiên cứu hoặc là tâm linh. Theo ý tôi, người Pháp nói: "L'Un n'empêche pas l'autre" tức là khi chọn khoa học thì cứ nghiêng về khoa học. Tôi cũng tin, cũng đi chùa chứ không phải là tôi phủ nhận. Người vô thần có thể là một nhà khoa học rất tốt hay ngược lại".
Gs Trịnh Khải góp ý:
"Phật giáo đặt căn bản trên hai chữ vô thủy và vô chung. Cho nên những cái gọi là chân lý tương đối không phải là chân lý tuyệt đối, cũng không phải là chân lý tối hậu. Đức Phật khuyên chúng ta con đường của người Phật tử là đừng tìm chuyện cao xa mà phải tìm hiểu những điều ta sống hằng ngày, sửa đổi, tu tâm, để chuyển cái nghiệp của cuộc đời mình theo luật nhân quả, nếu làm xấu trước sau cũng phải trả. Câu nói của Đức Phật rất đơn giản: "Tout se paye et tout est payé" (Đã mang nợ thì trước sau phải trả thôi). Cuộc đời của chúng ta nên sống như vậy".
Nhà thơ Phương Du tiếp lời:
"Quan niệm về nghiệp chướng tôn giáo nào cũng có cả, tức là làm ác thì gặp đau khổ, làm lành thì gặp hạnh phúc. Ngoài ra còn có sự huyền bí trong vũ trụ, các nhà khoa học chỉ nói con người ta có ký ức, tư tưởng, trí thông minh nhưng không nói do ở đâu mà ra. Nếu chỉ nói về vật chất, người ta sinh ra, sống rồi chết thì vô lý quá. Phần hồn cũng là quan trọng. Phần xác là tạm bợ, phần hồn là vĩnh cửu. Tại sao không nghiên cứu về đời sau?".
Phần hội luận vô cùng sôi nổi TS Võ Hùng Anh, Linh mục Ngô Đình Sỹ, GS Trần Văn Thu cùng các vị khác có nhiều góp ý.
GS Trần Văn Cảnh nêu ra nhiều câu hỏi:
"Những khám phá về triết học cũng như về thần học, khoa học chưa đủ vì nó chỉ có hai khái niệm về không gian và thời gian. Ngoài ra còn có những cái khác, bước nhảy vọt vượt qua mà không dựa vào gì hết, nếu dựa vào biến đổi khoa học sơ đẳng thì có vật lý biến đổi theo chuyển động, có sinh lý biến đổi theo sinh đẻ, có hóa học tức là có những biến đổi theo phân tích và tổng hợp. Trong thế giới có những biến đổi này, thì ta thấy qua và hiểu được. Và các khái niệm về không gian và thời gian thì ta có hiểu được nhưng chưa giải thích hết được?".
GS Nguyễn Quang Riệu trả lời:
"Nhiều khi tôi tự hỏi không cần tìm hiểu xa xôi trước khi sinh ra mình là gì, khi chết mình ra sao? Có ai biết được không? Tôi thấy con người mình phải khiêm tốn thôi, không thể nào biết được hết. Các nhà khoa học giỏi đến đâu thì giỏi mà cũng không thể hiểu".
GS Trần Văn Cảnh: "Tiến trình từ lúc có Vụ Nổ Lớn (Big Bang) cho đến bây giờ ta đang ở đây sau gần 14 tỷ năm có những giai đoạn tiến trình nào khác? Trong tương lai giả dụ có tiến triển nào chưa? Ước lượng giả sử những tiến trình trong tương lai, những điều đã biết và những điều còn đang trong giả thuyết?"
GS Nguyễn Quang Riệu trả lời:
"Điều mà các nhà thiên văn hiện giờ đã đánh giá vào độ tuổi của Vũ trụ là 13,7. Đó cũng là một khoảng sai hay đúng thì không biết, nhưng người ta công nhận là đúng. Khoa học tiến qua giai đoạn gọi là sai và đúng chứ không có tuyệt đối. Vấn đề nan giải bây giờ người ta muốn giải quyết là thuyết Big Bang có đúng không? Theo như ý thức chung chung của Einstein khi có một vật thể nào gây ra sự nổ thì nó phát ra một làn sóng gọi là sóng hấp dẫn làm cho không gian và thời gian cong như một làn sóng cảnh tượng như khi ta ném một vật gì xuống hồ. Vấn đề là làm thế nào để phát hiện ra làn sóng đó".
Quà cho anh em khỏi dặn dò, Lén đề trong đó ít lời thơ Anh cần gẫm lại bài năm cũ… Mà xót xa thầm nghĩa tự do! Anh phóng đời qua lỗ khóa con Để còn trông thấy bóng trăng non Thèm nghe gió thở cùng tâm sự Và biết em buồn nhưng sắt son. Anh muốn làm chim cất cánh bay, Về miền xa thẳm tít trời mây Thả hồn lướt cánh bay trong nắng, Giải thoát đời qua kiếp đọa đày! Anh vẫn ngồi đây tim héo hon! Đợi ngày tháng úa giết hao mòn. Chờ con mắt lạc sâu đêm tối, Là lúc côn trùng réo nỉ non!
Biết về đâu những mảnh hồn trôi nổi, Nỗi buồn xưa theo cơn nắng vàng phai Ngày tháng hạ chỉ còn là bóng tối, Đêm hoa đăng như một giấc ngủ dài! Người năm cũ ôm tấm lòng trăn trở Tóc màu sương cố níu lấy thời gian Giữ lửa thiêng thắp sáng chí dựng cờ Cho đất mẹ khỏi lầm than ly tán. Những lớp trẻ từ mùa chinh chiến đó Vai lên đường oằn chĩu gói hành trang Nợ núi sông nên hóa thành cây cỏ Bao ước mơ như khúc nhạc lỡ làng! Đời vong quốc những người xưa muôn ngả Hận ly hương ngày trước đã dần phai? Xin cúi mặt cho tự do nghiệt ngã, Mớ hành trang đã rớt tấm thẻ bài! Trời viễn xứ tít xoay trong cơm áo Chí hùng anh còn mỗi giấc chiêm bao Tình chiến hữu mịt mờ như hoang đảo Nợ tang bồng thôi cũng vẫy tay chào! Ngẫm thế sự buồn in lên nếp trán Chuyện mài gươm tàn tạ bóng thời gian Nhặt mảnh kiếm thay gương soi dấu đạn Vết thù xưa, đau một kiếp dã tràng! Đỗ Bình
Hồ Trường An tên thật là Nguyễn Viết Quang, sinh ngày 11 tháng 11 năm 1938 ở làng Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long và qua đời tại Troyes ngày 27.1.2020.
Các bút hiệu khác: Đào Huy Đán, Đông phương Bảo Ngọc, Nguyễn Thị. Ông di cư sang Pháp ở tỉnh Troyes và sống đến cuối đời.
Thuở nhỏ ông học các trường Tống Phước Hiệp, Nguyễn Đình Chiểu, Chu Văn An, Đại học Dược Khoa. Tốt nghiệp khóa 26 trường Sĩ Quan Thủ Đức. Trưởng ban Chiến Tranh Chính Trị tại hai Chi Khu Trị Tâm và Lái Thiêu (tỉnh Bình Dương) từ năm 1969 tới năm 1971.
Sau đó phục vụ tại Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn III và Quân Khu 3 (tỉnh Biên Hòa) cho tới tháng 4 năm 1975.
Hồ Trường An làm thơ rất sớm thỉnh thoảng có những bài thơ học trò tâm sự của ngời trai mới lớn, đến khi là sinh viên trường Dược ông đã chuyển sang văn xuôi, viết báo, từng làm phóng viên kịch trường cộng tác với Bách Khoa, Minh Tinh, Tiền Tuyến, Tiền Phong, Tin Văn, Tin Sách, Tiểu Thuyết Tuần San, Tranh Thủ, Tiểu, Bút Hoa. Khi vào quân đội ông được đưa về phục vụ trong Ban thông tin báo chí. Sau năm 1975 ra hải ngoại ông tiếp tục làm báo và cộng tác với các báo: Quê Mẹ, Hồn Nước, Đất Mới, Văn, Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Bút Lửa, Lạc Hồng, Viên Giác, Đẹp, Tự Do (Texas), Tự Do (Canada), Chiêu Dương, Xây Dựng, Lửa Việt, Làng Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Hải Ngoại Nhân Văn, Cỏ Thơm,.. Ông từng là tổng thư ký tòa soạn Quê Mẹ (Pháp) và Làng Văn (Canada) trong một thời gian. Chính nhờ cộng tác với nhiều tạp chí đã tên tuổi của Hồ Trường An đến với nhiều độc giả khắp nơi ở hải ngoại và quen biết thêm nhiều văn nghệ sĩ và bạn đọc khắp nơi.
Nhà văn Hồ trường An tính tình hiền hòa đôn hậu nhưng dễ nóng! Để khắc phục sự nóng nảy ông Thiền định pháp danh là Thiện Tĩnh và ăn chay trường suốt mấy chục năm cho đến lúc giã từ cõi đời. Hồ Trường An là người ham học, đọc sách rất nhiều nên kiến thức uyên bác. Ông nghiên cứu sâu sắc về những tư tưởng triết học của nhiều nhà tư tưởng triết gia trên thế giới, am tường nhiều loại thể hình văn học nghệ thuật. Dù nổi tiếng nhưng trong tâm hồn ông chưa thật sự bình thản vì trong nền văn hóa cũ giới tính vẫn bị nhìn một cách khắt khe còn gò bó, bảo thủ nên ông cảm thấy bị phiền lòng khi nghe thị phi về giới tính.
Vấn đề lưỡng tính của Hồ Trường An là có cảm tình và hấp dẫn của hai giới nam nữ. Có lẽ kể từ khi ông viết tập thơ Thiên Đường Tìm Lại một loại thi văn dục ái, được Nhà thơ TS Lưu Nguyễn Đạt viết lời tựa:"..thi văn dục ái chân chính nhằm mục đích khai phóng những yếu tố căn bản của dục cảm, dưới hình thức xúc cảm toàn giác. Thi văn dục ái đã gắn bó người với người bằng thỏa mãn đam mê toàn diện, nhằm phúc hồi lẽ sống chân thành và sáng tạo cởi mở. Thể xác, xúc cảm và tâm linh được nhắc nhở thỏa mãn trong chân tình hòa hợp. Theo chiều hướng đó, những dòng thi văn tâm linh và lãng mạn trên thế giới, qua những thời điểm khác nhau đều xác định và ca tụng tình yêu dưới hai khía cạnh tâm ái (spiritual or platonic love) và dục ái tới mực độ bổ xung toàn diện (total/absolute love) như một thể cách khai phóng nhân bản để hội nhập vào toàn thế giới hiện sinh…"
Nhà Biên khảo TS Trần Bích San viết trong lời giới thiệu thi tập Thiên Đường Tìm Lại:"Mặc Khải Trong Thi Ca. Thi Ca Dục Ái Xuất Hiện Từ Lâu Trong Văn Chương Truyền Khẩu. Phong Dao, Tục Ngữ, Câu Đố Có Những Bài, Những Câu Liên Quan Đến Tính Dục Nam Nữ…. Thơ dục ái Hồ Trường An không hoằng dương nhục cảm. Nhà thơ sử dụng nó như phương tiện chuyên chở nghệ thuật, gây thích thú thưởng ngoạn, kích thích giác quan thẩm mỹ tạo ra không khí trân trọng nghệ thuật. Tình yêu trong thơ Hồ Trường An là sự thăng hoa toàn diện, triệt để, vô hạn giữa tâm hồn và thể xác, giữa cá nhân với quê hương, giữa con người với thiên nhiên… "
(Ảnh: Nhà Văn Tiểu Thu chuyển)
Cũng trong thời gian đó nhà văn Hồ Trường An bằng lòng chấp nhận trả lời cuộc phỏng vấn của nhà phê bìnhThụy Khuê trên đài RFI ông mới công khai về giới tính, Câu lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris mời ông thuyết trình đề tài văn học, những bằng hữu văn nghệ sĩ xa gần đều trân trọng tài năng và ủng hộ tinh thần ông, điều đó đã giúp nhà văn mạnh dạn rũ bỏ mặc cảm giới tính. Ở hải ngoại trong sinh hoạt đời thường và sinh hoạt trong giới văn nghệ nhà văn Hồ Trường An thích giao du quen với những nhà văn nữ vì qua họ ông tìm thấy mình có điểm chung, và sự giao thiệp với những người nhưng quanh vẫn bình thường. Nhà văn Hồ Trường An rất chân thành và quý tình bạn, những ai đã từng quen biết ông ở xa sang thăm Paris ông biết được, dậy sớm lấy xe lửa từ Troyes lên Paris gặp mặt, mời ăn sau đó đón xe lửa trở về. Ông thích làm nghệ thuật và quan niệm "cầu tinh bất cầu đa" nên viết cẩn thận, mỗi cuốn là một thông điệp gởi gấm. Dù ông sống toàn thời bằng nghề cầm bút và có nhiều tác phẩm bán chạy nhưng vẫn không khá giả tài chánh vì thời nay người ta thích đọc trên Internet hơn mua sách nên thị trường sách ngày càng ế ẩm! Nhà văn nặng nợ với chữ nghĩa, là nghiệp dĩ nên Hồ Trường An vẫn đeo đuổi. Khác với những Bạn văn của ông họ đi làm chuyên môn để nuôi nghiệp, riêng ông vẫn miệt mài kiên trì với nghề cầm bút dù chẳng dư giả mà lòng thanh thản. Tim ông chan chứa tình người, tình quê, một tấm lòng bao la nhân ái luôn chia phần của mình làm một chút quà nhỏ gởi về giúp các bạn văn nghệ sĩ khốn khó hơn ở quê nhà. Năm ông 65 tuổi được lãnh tiền già ông gọi phôn cho tôi sung sướng nói: "Từ đây tôi sẽ viết cho tôi, viết theo những điều mình suy nghĩ và thích !".
Nhà văn Hồ Trường An cư ngụ ở tỉnh Troyes thuộc vùng Champagne-Ardenne, cách Paris 160 Km về hướng Đông Nam. Đây một thành phố cổ nhiều di tích lịch sử thời Phục hưng thuộc văn hóa quốc gia, nhờ sống nơi yên tĩnh nên ông đã dành toàn thì giờ cho sự nghiệp cầm bút để viết báo và viết tiểu thuyết. Nhà văn vốn sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Nho học, có cha là nhà văn Mặc Khải, cô là Thi sĩ Phương Đài và chị ruột là nữ sĩ Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bà từng đoạt giải văn chương toàn quốc năm 1970 với tác phẩm "Khung Rêu Trắng". Trước năm 1975 hai chị em ông rất được nhà văn Võ Phiến một cây bút thành danh có văn phong trau chuốt thương mến, nhưng Hồ Trường An lại thích khuynh hướng văn chương tiểu thuyết có ngôn ngữ địa phương của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, nhà văn Sơn Nam nên Hồ Trường An bị ảnh hưởng chất miệt vườn Miền Nam chiếm tâm hồn. Do đó văn phong của Hồ Trường An có chút nửa quê nửa tỉnh, câu văn mộc mạc nhưng ý sâu sắc khi diễn tả về một chân dung, một sự vật một cách tỉ mỉ tài tình thắm đầy tình của người dân miệt vườn Miền Nam. Từ cuốn truyện dài Phấn Bướm ấn hành 1986, cuốn Hợp Lưu 1986, Lớp Sóng Phế Hưng(1988) đến nay ông đã xuất bản được gần 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại gồm Truyện Dài, tập Truyện Ngắn, tập Biên Khảo, Ký Sự, Bút Ký và 2 tập thơ: Thiên Đường Tìm Lại (2002), và Vườn Cau quê Ngoại (2003). Nhà văn Hồ Trường An có một trí nhớ rất đặc biệt, ông nhớ tỉ mỉ về một người mà ông chỉ gặp một lần.
(Vài lời tâm sự. Nhà văn Hồ Trường An)
Năm 2008 ông bị tai biến mạch máu não toàn thân bất động lúc đầu không nói được và trí nhớ cũng quên! Sau một thời gian điều trị trí nhớ của ông được khôi phục và đã dần dần nói được dù rất khó khăn. Từ lúc ông bị bại liệt, nhờ sức mạnh văn chương thúc đẩy đã giúp ông nhiều nghị lực vượt qua những khó khăn bệnh tật để thực hiện được những tác phẩm biên khảo mà chỉ gõ máy bằng một ngón tay, đó là cuốn Núi Cao Vực Thẩm (2012), viết về 9 vóc dáng văn học Việt Nam của Thế Kỷ 20: Nguyễn Ngọc Bích, Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Thụy Khuê, Vũ Tiến Lập, Võ Phiến, Đặng Phùng Quân, Trương Anh Thụy, Thanh Tâm Tuyền.
Cuốn: Ảnh Trường Kịch Giới(2012), ký ức về điện ảnh Việt Nam. Cuốn Trên Nẻo Đường Nắng Tới (2013) Nhận định văn học về Những khuôn mặt nổi tiếng trong giới văn học trong và ngoài nước như GS Nguyễn Ngọc Bích, Nhà phê bình văn học Thụy Khuê, Nhà văn Đặng Phùng Quân, Nhà văn Dương Nghiễm Mậu, Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, Nhà văn Vĩnh Hảo, Nhà văn Hàn Song Tường, Họa sĩ Võ Đình, Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ.
Ở Pháp có 3 nhà văn một đời yêu văn chương chữ nghĩa dù sức khỏe yếu đuối bệnh tật hoàn cảnh sáng tác rất khó khăn nhưng vẫn miệt mài hoàn thành những tác phẩm cho đời đến lúc lìa đời mới bỏ bút: Nhà văn An Khê chỉ còn một tay, viết văn gõ máy chữ một tay hoàn thành tác phẩm Từ Khám Lớn Tới Côn Đảo(Làng Văn xuất bản 1992). Nhà văn Duyên Anh: bán thân bất toại phải viết bằng tay trái nhưng vẫn đã hoàn thành nhiều tác phẩm tiểu thuyết cũng như âm nhạc đến cuối đời vẫn còn một số tác phẩm vẫn in. Cuốn Danh Ná viết ở Sài gòn tháng 7 năm 1982. Cuốn Nhóc Tì Phản Động viết xong 16 tháng 2 năm1986, sau khi nhà văn Duyên Anh mất năm 2017 con của ông xuất bản thêm hai cuốn…và còn nhiều tập truyện chưa xuất bản. Nhà văn Hồ Trường An đã cố tập luyện để khắc phục bệnh tật, từ lúc bị bại liệt gõ PC bằng một ngón tay đến ngày cuối đời được thêm một số tác phẩm hơn 30 cuốn, mỗi cuốn mấy trăm trang.
Các tác phẩm đã xuất bản:
Truyện dài:
Phấn Bướm (Làng Văn, 1986), Hợp Lưu (Văn Nghệ, 1986), Lớp Sóng Phế Hưng (1988), Lúa Tiêu Ruộng Biền (1989), Ngát Hương Mật Ong (Làng Văn, 1989), Còn Tuôn Mạch Đời (1990), Lối Bướm Đường Hương (1991), Tình Trong Nhung Lụạ (1991), Ngát Thơm Hoa Bưởi Bông Trà (1992), Tình Đẹp Đất Long Hồ (1993), Trang Trại Thần Tiên (1993), Vùng Thôn Trang Diễm Ảo (1994), Thuở Sen Hồng Phượng Thắm (1995), Chân Trời Mộng Đẹp (1995), Bãi Gió Cồn Trăng (Làng Văn, 1995), Bóng Đèn Tà Nguyệt (1995), Tình Sen Ý Huệ (1999), Hiền Như Nắng Mới (2001), Chiếc Quạt Tôn Nữ (2002), Màn Nhung Đã Khép (2003), Đàn Trăng Quạt Bướm (Làng Văn, 2005), Trở Lại Bến Thùy Dương (Làng Văn, 2009).
Tập truyện:
Chuyện Quê Nam (Làng Văn, 1991), Tạp Chủng (Làng Văn, 1991), Cõi Ký Ức Trăng Xanh (Làng Văn, 1991), Hội RẫyVườn Sông Rạch (1992), Chuyện Miệt Vườn (1992), Đồng Không Mông Quạnh (1994), Gả Thiếp Về Vườn (Làng Văn, 1994), Đêm Xanh Huyền Hoặc (1994), Chuyện Ma Đất Tân Bồi (1998), Tập Truyện Ma (2001), Quà Ngon Đất Quê Nam (2003), Trăng Xanh Bên Trời Huế (Làng Văn, 2009), Truyền Kỳ Trên Quê Nam (Làng Văn, 2009),
Ký sự, Bút khảo, Bút ký:
Giai Thoại Hồng (1988), Thông Điệp Hồng (1990), (Chân Trời Lam Ngọc I (1993), Chân Trời Lam Ngọc II (199(1995), Sàn Gỗ Màn Nhung (1996), Cảo Thơm ( 1998), Theo Chân Những Tiếng Hát (1998), Tác Phẩm Đẹp Của Bạn (2000), Chân Dung Những Tiếng Hát I (2000), Chân Dung Những Tiếng Hát II (2001), Lai Láng Dòng Phù Sa (2001), Thập Thúy Tầm Phương (2001), Chân Dung 10 Nhà Văn Nữ (2002), Tập Diễm Ngưng Huy (2003), Chân Dung Những Tiếng Hát III (2003), Bảy Sắc Cầu Vồng (2004), Giai Thoại Văn Chương (2006), Náo Nức Hội Trăng Rằm (2007), Thắp Nắng Bên Trời (2007), Quê Nam Một Cõi (2007), Giữa Đất Trời Giao Hưởng ( 2008 ), Núi Cao Vực Thẳm ( 2012), Ảnh Trường Kịch Giới ( 2012 ), Trên Nẻo Đường Nắng Tới(2013). Cảo Thơm, Giữa Đất Trời Giao Hưởng, Lần Giở Trước Đèn, Cây Quỳnh Cành Dao, Những Khuôn Mặt Văn Chương…v..v...
Tập thơ:
Thiên Đường Tìm Lại (2002), Vườn Cau Quê Ngoại (2003). Cho Tôi Sống Lại Một Ngày.
Từ bao lâu nay người ta tranh cãi về những chuẩn mực trong văn học nghệ thuật giữa cái hay và cái dở. Trong khi đó thích hay không thích chỉ là chủ quan của người đọc. Phần chính yếu của nghệ thuật chính là cảm nhận chủ quan. Ngày nay người làm thơ ngày càng nhiều, đó là điều đáng mừng vì tâm hồn thơ sẽ giúp cho đời thêm hoa bớt đi sự cay đắng. Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oánh trong Ba Lê Thi Xã, thuộc hoàng phái, cháu của Thi sĩ Tùng Thiện Vương thời quân chủ đặt câu hỏi: “Tại sao có những bài gọi là thơ mà không phải là thơ, văn xuôi khác thơ ở điểm nào?
Có lẽ chưa có một định nghĩa nào chuẩn mực cho thơ nhưng phải chăng một bài viết cẩu thả, viết cho lấy có chỉ dựa vào thể tự do để gọi là “thơ” thì chưa chắc đã là một bài thơ và cũng không thể gọi là văn xuôi? Phải chăng thơ hiện đại và tự do rất gần gũi với văn xuôi? Nhưng làm một bài thơ tự do hay, hoặc một bài thơ hiện đại hay thì rất khó! Nhưng khi đã thành thơ thì bài đó sẽ đặc sắc và độc đáo, một bài thơ hay phải bao gồm mỹ học và ý thơ.
Quan niệm sáng tác của nhà văn Hồ Trường An là sự dựa trên chủ quan, trong cuốn:
Trên Nẻo Đường Nắng Tới của ông: "Tác phẩm này chỉ rọi sáng một đoạn văn chương.... Có thể có nhiều qúy độc giả cho rằng bút gỉa chủ quan trong việc chọn lựa những quyển sách theo cảm quan riêng biệt của mình mà không đến xỉa đến cảm quan của độc giả và không nghĩ gì đến giá trị đích thực của nghệ thuật. Nhưng biết sao hơn. Bút giả làm chuyện trái ngược với cách cư xử của Tào Mạnh Đức(Tào Tháo). Quan niệm của ông ta thà giết lầm mười người, còn hơn tha lầm một người. Bút giả thì cam chịu ngu si vì tha lầm người gian lẫn người ngay, không cần biết ai gian ai ngay. Hễ những sách nào mà bút giả không ưa thích thì dù được thiên hạ cho là siêu phẩm, tuyệt phẩm đi nữa thì bút giả gia công đọc đi đọc lại để sưu khảo cái tinh hoa của chúng. Còn nói gì những sách mà tác giả hâm mộ thì viết về chúng một cách trơn tru thống khoái."
Trong một sinh hoạt Văn học Nghệ thuật do Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris tổ chức năm 2004 nhà văn Hồ Trường An thổ lộ tâm tình lúc ông chưa bị bệnh. Hôm đó quy tụ nhiều khuôn mặt nổi tiếng ở Paris và văn thi sĩ Thụy Cầm Dương Huệ Anh từ Cali sang: Nhạc sĩ,GS Lê Mộng Nguyên, Nhạc sĩ Xuân Lôi, Nhạc sĩ Trịnh Hưng, Nhạc sĩ Trọng Lễ, Nhạc sĩ, DS Nguyễn Đình Tuấn,GS Âm nhạc Quỳnh Hạnh. Nữ sĩ Minh Châu Thái Hạc Oánh, Nữ sĩ Quỳnh Liên, Nữ sĩ Thụy Khanh, Nữ sĩ Hà Lan Phương,
Học giả, GS Võ Thu Tịnh Nhà thơ Vân Uyên GS Nguyễn Văn Ái, Nhà thơ Phương Du BS Nguyễn Bá Hậu, BS Nguyễn Bá Linh, Nhà Thần học TS Nguyễn Tấn Phước, Nhà Biên Khảo Liều Phong, GS Nguyễn Ngọc Chân, GS Nguyễn Bảo Hưng, Nhà văn, GS Trần Đại Sĩ, Nhà văn Võ Đức Trung, Nhà văn Hồ Trường An, Văn Thi sĩ, Nhà thơ Đỗ Bình, Danh họa René, Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng, Điêu khắc gia Vương Thu Thủy, Nghệ sĩ Diệu Khánh, Nghệ sĩ Linh Chi, Nghệ sĩ Thúy Hằng, Kim Lan. ..vv….
Nhà văn Hồ Trường An tác giả gần 50 đầu sách gồm truyện dài, tiểu thuyết, bút ký, biên khảo, nhân định và phê bình.
Nhà văn Hồ Trường An:
"Thưa các bậc niên trưởng, và qúy văn hữu: Tôi làm văn nghệ tùy vào cảm hứng vui đâu chuốc đó chứ không nhất định cái gì, nếu cảm thấy hứng là làm. Cần phê bình là phê bình, khi tôi viết về biên khảo không phải là viết toàn sự nghiệp văn học của tác giả nào, mà viết từng cuốn chứ không dám ôm đồm. Nếu có cảm hứng làm thơ thì làm những bài thơ Đường, vui đâu chuốc đó. Tôi có một đức tính: Nếu ai khen thì cũng mừng, còn ai chê thì cũng rán chịu trận chứ không một lời nào đính chính trên báo hết. Bởi càng đính chính thì càng làm cho người ta làm dữ!. Do đó ai chê tôi thì chê; ai khen thì mừng tôi không có một phản ứng, thật ra tôi không có buồn, mình làm một món ngon người này ăn thì khen người kia ăn thì chê, kẻ thích mì người thích hủ tíu, còn có người ăn mì ăn hủ tíu nhiều quá lại thích ăn bún riêu.
Qúy vị đã đọc qua cuốn biên khảo"Thập Thúy Tầm Phương", gồm có: Nhà thơ Vi Khuê, Nhà thơ Hoàng Ngọc Liên, Nhà thơ Diên Nghị, Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Dung, Nhà văn Bình Huyên, Nhà văn Linh Linh Ngọc, Nhà thơ Phương Triều, Nhà thơ Nguyễn Văn cường, Nhà thơ Đỗ Bình, Nhà thơ Dư Thị Diễm Buồn. Cuốn biên khảo thứ tư tôi đang viết là cuốn "Tập Diễn Ngưng Huy" trong đó có hai người hiện diện ở đây là anh Võ Đức Trung và chị Thụy Khanh: Tôi xin giải thích cái tựa sách: Tập: kết tập, Diễm là đẹp, Ngưng là ngưng lại, Huy là ánh sáng, ánh sáng ngưng đọng lại tôi rút ra từ Hồng Lâu Mộng chứ không phải do tôi đặt. Tóm lại tôi không có chủ trương gì lớn lao, tôi không có tham vọng. Xin dứt lời."
Nhà văn Hồ Trường An tâm sự vói tôi cho biết trong những tác phẩm đã viết ông chỉ hài lòng ở những tác phẩm là văn chương đích thực, còn một số khác chỉ là truyện kể! Hầu như những người nổi tiếng ở hải ngoại đều được ông viết nhận định, phê bình về tác giả và tác phẩm của họ, nhưng rất ít người viết về ông. Đối với những nhà phê bình văn học chuyên nghiệp để phân tích văn chương, ý tưởng trong tiểu thuyết của ông không quá khó, nhưng phân tích tỉ mỉ tâm lý nhân vật trong một số truyện của ông lại rất khó, vì bản thân ông có lưỡng tính nên khi diễn tả về những nhân vật nam hay nữ đôi khi có sự lẫn lộn nam tính nà nữ tính trong tác phẩm! Nhà văn thừa nhận điều này nhưng lại không cho biết ở những câu đối thoại nào trong tác phẩm.
Tối 30 Tết tức ngày 24 tháng 01 năm 2020 nhà văn Hồ Trường An phôn nói chuyện với tôi rất lâu, đây là lần cuối cùng của ông. Điều tôi rất ngạc nhiên giọng nói của ông lần này nghe rất trẻ và rõ ràng vì đã lâu, kể từ khi ông bị bệnh giọng nói trở nên không rõ! Trong suốt thời gian gian dài nhiều năm ông thường xuyên liên lạc với tôi, có những khi ngày gọi phôn 2,3 lần để trao đổi những chuyện liên quan đến văn học nghệ thuật. Ông là một thành viên của Câu Lạc Bộ văn Hóa Việt Nam Paris, lúc còn khỏe đã nhiều lần ông lên Paris diễn thuyết về đề tài văn học. Trong cuốn Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại mà ông là một thành viên trong Ban Biên Tập, lúc đầu ông gởi tham gia những bài của ông đã được in sách và xuất bản về những tác giả Mai Thảo, Trần Long Hồ, Thụy Khuê, bài đã được toàn ban thuận đưa vào sách. Thế nhưng sau một thời gian ông đã rút lại những bài đó, và đề gởi riêng cho tôi bài Giới Tính Trong Văn Chương, ông nhấn mạnh đây là bài độc đáo, một bài tâm huyết và đắc ý nhất vì nó dám nói lên những điều thuộc giới tính còn húy kỵ trong quan niệm cổ truyền của người Việt.
Ông giã từ cõi đời một cách đột ngột để thả hồn vào một giấc ngủ say. Ông đã rũ bỏ những buồn phiền nhân thế, những nỗi buồn nhớ quê mà suốt đời lưu vong ông chưa một lần trở lại. Giã từ chiếc xe lăn theo áng mây bồng bềnh bay về cõi miên viễn.
Người xưa đã nói :"Nếu hỏi điều kỳ diệu nhất trong thế giới này là gì, thì đó là trái tim của mẹ". Mẹ là tiếng gọi đầu đời của trẻ thơ, là dòng sữa ngọt nuôi nấng con thơ lúc chào đời, dạy con bắt đầu học nói, hát ru ngủ, chăm sóc lúc con thức và tập cho con những bước đi đầu tiên.
Người xưa còn nói: "Thượng Đế không thể có mặt ở khắp mọi nơi nên Ngài đã sinh ra các bà mẹ để thay mặt ngài chăm sóc đàn con".
Tình mẹ diệu vợi luôn luôn nồng ấm hòa nhập với mạch sống hạnh phúc đau khổ của con. Lòng mẹ hân hoan sung sướng khi thấy con khôn lớn, thành đạt trong xã hội, và sẳn sàng chia sẻ những muộn phiền lo âu khi con gặp những thất bại trên đường đời. Trong lịch sử Việt Nam những gương hy sinh của mẹ cho con trong thời loạn và thời bình những chuyện đó nhiều vô kể. Tình mẹ được thể hiện trong những tác phẩm văn học và nghệ thuật qua thi văn, âm nhạc, điêu khắc, hội họa, điện ảnh, sân khấu... Người nghệ sĩ dù đã đem tài năng, tim óc để diễn tả về khối tình tuyệt vời đó nhưng vẫn không tả hết về tấm lòng cao cả bao la sâu thẳm của người mẹ!
Hình ảnh người mẹ trong lãnh vực tôn giáo: Phật Giáo có đức Quan Thế Âm được tôn sùng dưới hình thức Mẹ. Thiên Chúa Giáo có Đức Mẹ, thánh nữ đồng trinh Maria. Trong kho tàng văn hóa Việt Nam những truyện cổ tích, ca dao, tranh họa, cải lương, kịch..…viết về mẹ không nhiều, nhưng lại thắm tình dân gian nên lưu truyền đến ngày nay. Có người ví: "Trái tim của người mẹ là một kỳ quan tuyệt hảo nhất trong số những kỳ quan trong vũ trụ, và cũng là trường học cho đứa con".
Nói về tình mẹ và đức tính hy sinh thì trên thế gian quả chẳng có bút mực nào kể hết. Theo tiến trình thời gian kể từ thuở hồng hoang đến nay vạn vật đã có nhiều sự biến mất và thay đổi, nhưng tình mẹ thương con vẫn không hề biến dạng. Vìệt Nam từ thời xa xưa cho tới hiện nay, nghèo đói, thiên tai, chiến tranh, chế độ hà khắc, quan liêu… vẫn triền miên đè nặng lên đôi vai những người dân lam lũ, đó là những cái ách của dân tộc!
Có một năm quê miền Trung bị thiên tai bão lụt nặng dòng nước tràn như biển cả ngập lên nhà và cuốn đứa con đi, người mẹ nhìn thấy đã lao mình xuống dòng nước chảy thác lũ để cứu đứa con đang bị cuốn trôi. Người mẹ một tay cố nâng cao đứa con một tay cố bơi tìm chỗ bám, khi bơi vào được bờ đứa con được cứu sống nhưng người mẹ đã chết vì kiệt sức! Ở thời chiến tranh xảy ra trên khắp quê hương Miền Nam do người Cộng Sản chủ trương gây chiến, đất nước bị tàn phá, quê hương mịt mù khói lửa đạn vì xảy ra những cuộc giao tranh khốc liệt gười dân phải gồng gánh kéo nhau đi tản cư, trong số đó có nhiều người mẹ tay ôm sát con thơ vào lòng như muốn che chắn lằn đạn, tay dắt con nhỏ chạy đi lánh nạn.
Sau năm 1975 trong chế độ Cộng Sản thiên đường của nghèo đói, đời sống của người dân bị lệ thuộc vào tem phiếu, nhiều bà mẹ thuộc dện chế độ cũ không được cấp phát tem phiếu mà tư trang đồ đạc trong nhà đã bán hết chẳng còn gì để bán, vì mưu sinh cho gia đình nên phải đi bán máu mình để lấy tiền nuôi con. Sự cơ cực nghèo đói đã đẩy con người vào bước đường cùng, người mẹ nhìn thấy đàn con còn bé dại, rất cần tiền để sống nên bà bất chấp bản thân mình đã đến nhà thương liên tục bán máu nhiều lần, nhưng bị từ chối. Quá cần tiền nên bà lại đi chỗ khác bán, và cứ nhiều lần như thế bà đã chết vì kiệt sức do mất quá nhiều máu!
Chẳng biết câu ca dao sau đây có từ bao giờ đã diễn tả nỗi lòng người mẹ, bài ca dao thành bài hát ru tả bi kịch đời nghe ray rứt, bùi ngùi mà âm còn vọng mãi hôm nay:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi, mẹ dắt con đi.
Con thi trường học, mẹ thi trường đời."
(Ca Dao Việt Nam)
Những tấm lòng cao vợi của người mẹ đâu phải lúc nào cũng được hưởng hạnh phúc, đôi khi gặp những nghịch cảnh đau lòng:
"Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh theo vợ bé bỏ bè con thơ. Con thơ tay ẵm tay bồng, Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông."
(Ca Dao Việt Nam)
Ở những trường hợp ấy người mẹ đành nuốt nước mắt cắn răng chịu đựng nuôi con, hy vọng mai sau đàn con sẽ chóng nên người hữu dụng. Nhưng đời có lắm nghịch cảnh cười ra nước mắt, người đời thường bảo: «Nước mắt chảy xuôi, chứ nào chảy ngược!». Lúc các con còn bé sống chung với cha mẹ nhưng đến khi lớn khôn thành đạt thì có cuộc sống riêng và bắt đầu làm cha làm mẹ, và tình thương dành hết cho con nhưng lại quên người đã sinh ra mình! Sự thờ ơ đó khiến cõi lòng người mẹ đau xót chỉ biết im lặng vì sự hạnh phúc của các con. Trên môi người vẫn nở nụ cười cho các con an tâm, và cũng muốn che dấu một nỗi buồn sâu kín!:
"Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
Con nuôi mẹ con kẻ từng ngày!"
(Ca Dao Việt Nam)
Danh sĩ Lamartine đã nói về mẹ:
"Hạnh phúc thay cho những người nào được thượng đế ban tặng một hiền mẫu"
( Lamartine).
Nhà danh họa người Mỹ Mary Cassat cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 thuộc trường phái ấn tượng đã vẽ một bức tranh sơn dầu mang chủ đề Tình Mẫu Tử là một trong những bức tranh gía trị của thế giới. Tình mẹ không những bao la như biển trời thể hiện ở con người mà, mà tình mẹ cao cả còn thể hiện ở loài cầm thú về lòng hy sinh cũng vô bờ bến.
Hình ảnh chim Bồ Nông (Pélican) trong thánh kinh đã kể rằng:"Vì không tìm được mồi, sợ con đói, chim Bồ Nông đã tự rỉa thịt mình cho con ăn." Thật là cao đẹp thay cho tình mẹ! Ở động vật khác cũng có một loài nhện, khi con còn bé nhện mẹ đi tìm thức ăn nuôi con, nhưng khi con lớn nhện mẹ không thể đi tìm mồi nên đã nằm để cho nhện con ăn thân mình!
Nỗi lòng của người mẹ được giới nghệ sĩ trân trọng và đã diễn tả tâm tình qua nhiều phong cách khác nhau, trong đó có Âm Nhạc. Đây là bộ môn nghệ thuật dễ gây rung cảm lòng người qua giai điệu, tiết tấu, ca từ. Những hình ảnh trong lời ca gợi cho người thưởng lãm hòa vào cõi âm thanh đầy sắc màu để sống với giây phút riêng nhớ về một kỷ niệm. Phải chăng trong tâm hồn mỗi nhạc sĩ đều có chất thơ nên nhạc phẩm đã giao hưởng lời thơ ý nhạc? Ở ngiữa thập niên 60 thế kỷ trước ca khúc Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân làm ray rứt lòng người. Ca từ và giai điệu quyện nhau kết thành một nghệ thuật, ca từ như một bài thơ diễn tả nỗi lòng tuyệt vời của người mẹ, còn giai điệu là những nốt nhạc buồn làm thổn thức con tim nên đã ghi dấu ấn muôn đời về tấm lòng tuyệt vời của người mẹ:
"Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào, tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào. Lời ru êm ái như đồng lúa chiều rì rào. Tiếng ru trăng tà soi bóng mẹ yêu….Thương con thao thức bao đêm trường, con đà yên giấc, mẹ hiền sung sướng biết bao. Thương con khuya sớm bao tháng ngày, lặn lội gieo neo nuôi con tới ngày lớn khôn. Dù cho mưa gió không quản thân gầy mẹ hiền. Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền. Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một niềm. Tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền miên.. "
(Lòng Mẹ - Y Vân)
Thời đất nước ở giai đoạn chống ngoại xâm, nhạc sĩ Nhị Hà viết lên ca khúc Mẹ Tôi mà ca từ có lẫn những giọt nước mắt thấm vào hồn người nghe như tiếng chuông vọng buồn từ cõi xa:
"Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày. Mẹ tôi đau buồn nặng chĩu đôi vai, bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại, cầu mong con mình có một ngày mai. Mẹ tôi nắng mưa chẳng ngại nhọc nhằn, Mẹ tôi mỉm cười nhìn bóng con ngoan. Không than không phiền dù lâm hoạn nạn. Lòng mong con mình xứng thành người dân…Nhưng nay con nên người, thì nay còn đâu bà mẹ hiền xưa! Chiều nay đốt hương tưởng niệm trước mồ, Nhìn khói đau lòng tưởng nhớ năm xưa. Công ơn sinh thành ngày nao đền trả. Mẹ ơi con mẹ nhớ lời mẹ khuyên."
( Mẹ Tôi -Nhị Hà )
Mẹ là nguồn cảm hứng bất tận cho bao nghệ sĩ, trong bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, Trầm Tử Thiên phổ nhạc:
"Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!
…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực! Mẹ thà coi như chiếc lá bay," (Tống Biệt Hành)
Trong Lá Thư Gửi Mẹ của Thái Thủy được Nguyễn Hiền phổ nhạc:
"Mẹ ơi thôi đừng khóc nữa Cho lòng già nặng sầu thương Con đi say tình viễn xứ Đâu có quên tình cố hương" (Lá Thư Gửi Mẹ)
Trong nhạc phẩm Bông Hồng Cài Áo của Pham Thế Mỹ rất nổi tiếng dễ gây xúc động người nghe.
Hình ảnh người mẹ được gắn liền với sự thăng trầm của đất nước. Người nghệ sĩ đã nhân cách hóa người mẹ với quê hương để ca ngợi những đức tính nhẫn nại, hy sinh và sự gian khổ. Trong thời chống ngoại xâm không một ai không bị ảnh hưởng của ly loạn, thân phận người đàn bà có lẽ chịu nhiều thiệt thòi, đắng cay nghiệt ngã nhất!
Nhạc sĩ Phạm Duy đã viết lên ca khúc Bà Mẹ Gio Linh, bài ca mang tính biểu tượng, một biểu tượng đẹp về bà mẹ Việt Nam chống ngoại xâm:
"Mẹ gìa cuốc đất trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày. Dù cho áo rách sờn vai, cơm ăn bát vơi bát đầy.."
(Bà Mẹ gio Linh)
Thời kỳ đất nước mịt mù khói lửa đạn bom vì cuộc chiến Quốc Cộng, nhạc sĩ Lam Phương đã xúc cảm viết lên ca khúc như tiếng ru buồn diễn tả nỗi lòng cô quạnh của thiếu phụ chờ chồng và tấm lòng của người mẹ trong thời chiến:
"Đêm khuya rồi à ơi. ...con yên ngủ. Trăng xa vời đèn gầy nào soi kiếp người. Mái tranh nghèo lạnh lùng hắt gío sương rơi, được nhìn con thân mẹ dường ấm cuộc đời. Hận loạn thù tình cha dứt bước ra đi, tháng năm qua thôn nghèo chờ mối duyên quê. Rồi một ngày người người lừng chiến công về, mừng thầm mẹ hỏi tin cha, ngờ đâu bóng đã khuất xa!"
(Tình Mẹ)
Chiến tranh nào mà không gây máu lửa phân ly, những nỗi buồn chất thành núi. Làm sao đếm hết được những giọt nước mắt của mẹ già, con dại hay vợ hiền? Nhưng có lẽ sự thống khổ của người mẹ là tột độ! Thời ấy xuất hiện một nhạc sĩ với dòng nhạc phản chiến, những ca khúc phẫn nộ như muốn nói lên nỗi niềm của thân phận làm người trong một đất nước chiến tranh. Quả thật chiến tranh đã gieo vào tâm hồn Trịnh Công Sơn một ấn tượng mạnh khiến dòng cảm xúc tột độ nên ông viết được những tác phẩm làm xao xuyến lòng người. Tuyển tập Ca Khúc Da Vàng, trong ca khúc có những câu:
"Mẹ gìa lên núi tìm xương con mình…Mẹ ngồi ru con nước mắt nhục nhằn, xót xa đời mình…Thôi ngủ yên đi con, ngủ đời yên đi con che dấu thân đau rã mòn…". Giai điệu và ca từ sâu lắng đó réo rắc, trầm bổng như tiếng kinh gọi hồn nghe ai oán bi thương đến rợn người, làm xói mòn tâm thức của những người trai cùng thế hệ đang cầm súng làm nhiệm vụ bảo vệ sự tự do quê hương!
Người ta tự hỏi có nên trách người nghệ sĩ sáng tác về những nỗi buồn chiến tranh? Làm sao cấm được dòng cảm xúc của người nghệ sĩ? Thế nhưng sau cuộc chiến, trước những thực trạng quá đen tối của đất nước, rất tiếc người nhạc sĩ phản chiến ấy đã không đi h ết hành trình của tâm thức nghệ sĩ để nói lên nỗi thống khổ của dân tộc dù người nghệ sĩ đó ở phía nào, hay nhìn một góc độ nào. Những bi kịch ấy dưới ngòi bút tài hoa có thể viết lên những tác phẩm để đời mang dấu ấn thế kỷ; Tiếc thay nét nhạc tài hoa ấy bị nỗi sợ hãi làm nhòe!
Chiến tranh đã qua nhưng niềm đau của đất nước vẫn còn! Minh Đạo người nhạc sĩ có thời làm cựu thẩm phán đã chẳng than trách và đổ thừa cho ai khi thế sự đã thay đổi, mà chỉ ngậm ngùi cho những năm tháng tù đày và cuộc đời phiêu bạt. Nhớ mẹ Minh Đạo đã mượn nốt nhạc để giải nỗi sầu như một lời tạ tội với mẹ:
"Hôm nay ngày giỗ mẹ, nhớ từ thuở ấu thơ cha đã không còn nữa, mẹ con cùng bơ vơ. Miếng cơm hòa nước mắt, những tủi nhục kiếp người. Mẹ nửa con một nửa cùng chia sớt dòng đời. Đời con giờ phiêu bạt, bạc đầu vẫn trắgng tay. Cúi đầu xin lỗi mẹ, con nghe mẹ thở dài!"
(Con Nghe Mẹ Thở Dài)
Trong dòng thi ca Việt Nam từ xưa đến nay những bài thơ nói về mẹ thể hiện một sắc thái độc đáo, đặc sắc mang dấu ấn riêng không nhiều. Tùy theo tâm trạng, hoàn cảnh của từng nhà thơ nên cảm xúc diễn đạt bài thơ tuy có khác nhau về nội dung và hình thức, nhưng vẫn có điểm chung là giữ được tính chất: Chân và Thiện về người Mẹ. Bước vào cõi thơ là để lắng nghe tiếng lòng thỏ thẻ của thi nhân, tùy theo tâm cảnh mỗi nhà thơ hòa nhập với ngoại cảnh. Danh sĩ Tản Đà đã trải tấm lòng để diễn tả nỗi lòng người mẹ qua lời ru trìu mến trong đêm khuya thanh vắng:
"Con ơi con ngủ đêm tàn,
Một hai giấc điệp muôn vàn tình thâm."
Hình ảnh người mẹ hiền là chất liệu tạo cảm xúc trong thơ của Nguyễn Hữu Nhật. Nhà thơ đã tả lại khung cảnh gia đình:
"Mẹ ngồi tụng kinh Liên Hoa
Làm thơm suốt cả dãy nhà ba gian.
Mình con ngủ gật cạnh bàn,
Bài chưa thuộc hẳn, mộng toàn hoa sen."
(Thơ Hoa Sen)
Lời ru, tiếng hát của mẹ vang vọng đêm khuya, những buổi trưa hè, những chiều nắng tắt, tthanh âm lời ru ngọt ngào dỗ con vào giấc ngủ. Một khoảng không gian như ngừng lại chỉ còn tiếng ngân trầm bổng, quen thuộc đầy trìu mến. Lời ru tiếng hát của mẹ đã thấm vào hồn con, ẩn trong tiềm thức và hiện trong giấc mơ, đó là món qùa thiêng liêng vỗ về tinh thần ta suốt cuộc đời. Nhà thơ Mạc Phương Đình đã viết lên vần thơ về lời ru đó:
"Nửa khuya giọng hát nhà ai
âm ba tiếng Mẹ ru dài phố đêm
lời ru khi nổi khi chìm
mang mang hoài niệm cho tim bồi hồi.
Ta thầm gọi nhỏ: Mẹ ơi!
tháng ngày thơ ấu đẫm lời Mẹ ru
nghe trong tiềm thức sa mù
giọng xuân đầm ấm, giọng thu dịu dàng
trưa hè giọng Mẹ nhặt khoan
đêm đông lời Mẹ như than lửa hồng…
Một đời thân Mẹ long đong
lời ru vẫn mãi thanh trong ngọt ngào
lời ru như giấc chiêm bao
chắp con đôi cánh bay vào tương lai…"
(Lời Ru Của Mẹ)
Thời xưa trong dân gian lưu truyền một bài thơ: "Khóc Bằng Phi" rất trữ tình trong giới hoàng tộc, mà tác giả là Vua Tự Đức(1848-1883). Ngài có người thứ phi tên là Thị Bằng qua đời nên tiếc thương đã làm một bài thơ thể Đường luật, trong câu luận(5,6):
"…Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi…"
Nhà thơ Phan thị Ngôn Ngữ nhớ mẹ đã xúc cảm qua bài: Niềm Thương, bài thơ diễn tả nỗi nhớ, niềm thương về sự cô đơn của mẹ. Nhà thơ hình dung dáng mẹ với nỗi lòng héo hon mong ngóng đứa con xa cách. Câu thơ:«Mong con về ấm lại chiếu giường xưa…», tấm lòng của người mẹ thương con diệu vợi, bà đã chắt chiu giữ lại từng kỷ niệm của người con yêu dấu, và nhà thơ lòng cũng xót xa muốn trở về mái nhà xưa tìm lại hơi ấm, bên mẹ hiền.:
"Thương mái nhà tường xiêu vách lệch,
Dăm đám lục bình tim tím phủ ao nông. Mùa đông cắt da, mùa hạ ói nồng, Thương mẹ già nua mỏi mòn mắt đỏ. Mong con về ấm lại chiếu giường xưa. Tuổi lắt lay như chiếc lá cuối mùa Đêm trở gió một đèn khuya đối bóng.."
(Niềm Thương)
Nhà thơ Ý Nga bày tỏ nỗi lòng về mẹ qua bài thơ: "Quê mùa, mộc mạc Mẹ hiền Nuôi con vui sướng, muộn phiền Mẹ riêng Thương thay là phận thuyền quyên Một đời tần tảo, một duyên, vô phần. Thật thà, chân chất vô vàn Mẹ đi chân đất cho con dặm ngàn."
(Chân Đất)
Nhà thơ Tô Giang gởi chút tâm sự qua bài thơ ca ngợi đức tính hy sinh của người mẹ: "Thuở con mới chào đời, Mẹ tuổi trăng mười tám… Tóc xanh mẹ góa chồng Tháng năm dài còm cõi Mẹ con sống âm thầm Mái tranh nghèo dột nát, Gío lùa những đêm đông.."
(Kiếp Mẹ)
Nhà thơ Nguyễn Ngu Í đã phác họa chân dung người mẹ bằng những giọt lệ từ nhịp đập con tim mình qua bài:
"Con nhìn má, má gầy nhiều, má hỡi,Xương, gân này rõ rệt ở tay chân, Má, lại đây, má, cho con má nhìn gần, Coi tóc má bạc nhiều hay ít… "
(Má)
Sau chiến cuộc, người mẹ Việt Nam lại một lần nữa khóc cho số phận của đất nước khi nhìn thấy quê hương biến thành những trại tù đày! "Hòa bình ơi bạo lực chắn lối về, tàn chiến cuộc khói ngút bay trần thế!"
Mặc dù đất nước không còn chia cắt bến bờ, nhưng bạo lực và tội ác lan tràn, người người đành phải bỏ nước ra đi xa lánh bao quyền, đánh đổi sinh mạng vượt biển để đi tìm tự do. Những người ở lại sống trong hoàn cảnh nghèo đói khốn cùng, biết bao bà mẹ dầy nước mắt tiễn con đi lưu đày! Nhà thơ Phương Triều xúc cảm làm vần thơ để diễn tả nỗi lòng của người mẹ. May mắn cho nhà thơ ngày ra tù vẫn còn gặp được mẹ, và nay ông đã cùng mẹ về cõi vĩnh hằng!:
"Mẹ gìa tóc bạc hơn sương
Hái cho con trái quýt đường đầu năm
Bà con giòng họ hỏi thăm
Rằng con luân lạc mấy năm lưu đầy?
Núi cao, biển thẳm, sông dài
Những thân tù rạc biết ngày về chưa?
Mẹ ơi, chiều nay không mưa
Sao nghe ướt mặt như vừa tiễn ai!
Con về xơ xác hình hài
Mẹ không khóc được như ngày cách xa!
Mẹ tôi nay đã quá già
Nước mắt đã cạn, xót xa lại đầy!..."
(Đã Cạn)
Người ta cứ tưởng đến tuổi già là được an nghỉ, nhưng sau chiến tranh trong chế độ tem phiếu đời sống kinh tế khó khăn, tuổi già lại càng cơ cực hơn. Những bà mẹ Việt Nam đã cơ cực lại phải chắt chiu để có thể nuôi những đứa con trong tù. Nhà thơ Song Nhị nhớ mẹ mà lòng đau xót, trong tù đã mượn vần thơ như một lời tạ lỗi với mẹ:
"Ngoài bảy mươi chưa hết nỗi đoạn trường,
Đau thương chất lên tuổi gìa sức yếu. .. Mẹ chắt chiu dành dụm trong tay Từng đồng bạc để nuôi con cải tạo. Con ngồi trong bốn bức tường trân tráo Từng đêm dài tiếng mẹ vọng yêu thương. …» (Bài viết về Mẹ)
Bài ca dao được nhiều nhạc sĩ lấy ý, có bài phổ theo thể ngũ cung âm hưởng điệu Tứ Đại Oán nghe não nề. Giai điệu buồn vọng thấm vào hồn người về thân phận mong manh con người!: «Mẹ già như chuối chín cây, Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi. » (Ca Dao Việt Nam)
Có niềm đau nào hơn niềm đau ly biệt, mẹ như vầng trăng tròn tỏa sáng, người mất mẹ cuộc đời chỉ nhìn thấy nửa vầng trăng. Trăng trên trời là tính thể, trăng trong thi văn hội họa là biểu tượng cho cái đẹp trong sáng nhẹ nhàng đầy thơ mộng. Trăng có lúc tròn có lúc khuyết, cái khuyết trong sự vật là hình thể bị biến dạng méo mó như khối pha lê vỡ, còn cái khuyết trong tinh thần là sự mất mát không bao giờ tìm lại được! Hình ảnh người mẹ là bóng mát là chỗ dựa cho người con dù ở tuổi nào. Nhà thơ Phan Ngọc An đã khóc mẹ qua bài thơ:
"Đêm nay giữa chốn phồn hoa,
Có hồn thơ nhỏ chan hòa giọt châu. Trắng đêm thao thức vì đâu, Năm canh đối mộng vương sầu biệt ly. Mẹ đành bỏ trẻ ra đi Hồn nương theo gió mẹ đi không về. Sương khuya bàng bạc sơn khê, Hồn đơn vất vưởng ủ ê trăm chiều. Sống đời một kiếp cô liêu, Mẹ buồn mẹ khóc bao điều thở than… …. Mẹ ơi, giòng lệ con trào, Thương con thương mẹ ruột đau chín chiều. Giọt châu khóc mẹ đã nhiều, Chỉ mong hồn mẹ tiêu diêu cõi phàm." (Bài Thơ Khóc Mẹ) Nhà thơ Uyên Phương Minh Nguyệt cũng đồng cảnh nhưng làm thơ khóc mẹ chồng: "…………………….. Mẹ ơi về cõi thiên thai Dòng châu có chảy, sớm mai có buồn? Nợ trần Mạ có vấn vương? Thì xin theo gió tỏa hương chốn này. ...................... Chiều nay mây lững lờ bay, Chim sầu lìa tổ, cỏ cây cũng buồn Mạ giờ bên suối xa nguồn, Chúng con nhớ Mạ lệ tuôn chảy dài!! Âm dương cách biệt từ đây, Bụi trần thôi vướng, đường mây đón chào. Vẫy tay Mạ bước nghẹn ngào, Con vương tay níu chìm vào hư không!!!" (Thương Nhớ Mạ)
Nhà thơ Trần Trung Đạo ôm một nỗi bất hạnh khủng khiếp khi mới chào đời ông đã mất mẹ! Có lẽ do nỗi buồn to lớn ấy đã giúp ông có những nhạy bén về cảm xúc hơn người. Thơ ông có một sắc thái riêng:
"Con chẳng về đâu dù mưa hay nắng
Sông Thu Bồn trăng tháng bảy còn in Mười năm trời con làm mây viễn xứ Mười năm dài biền biệt dấu chân chim Ngày mẹ chết con chưa tròn một tháng Cha tảo tần sớm nắng với chiều mưa Thiếu sữa mẹ đời con thành đại hạn Thiếu lời ru con lớn với lọc lừa…» (Chuyện Đời Mẹ)
Nghịch cảnh đất nước làm đau lòng người. Nhà thơ Tùy Anh sau nhiều năm tù đày, nay làm kiếp lưu vong đã viết những lời thơ thống hối tạ lỗi với mẹ: “Trắng tay tự thuở vào đời Cũng hoàn tay trắng khi rời thế gian. Mẹ ơi, biền biệt non ngàn Giờ thương khóc mẹ muôn vàn xót xa. » ( Khóc Mẹ)
Thời thế hỗn mang, có những ước mơ tưởng bình thường nhưng không bao giờ toại nguyện, chỉ là mây bay và nỗi niềm như những sợi tóc trắng của tuổi gìa rụng theo thời gian! Hết chiến tranh lòng người đố kỵ nhau gây thêm hận thù ly tán khiến bao cả nh đời tan tác phiêu bạt khắp nơi! Mẹ tôi tuổi đã quá cao, lúc còn chiến tranh hằng cầu nguyện cho quê hương sớm thanh bình để con mình khỏi chết trận. Sau khi hết chiến tranh lại cầu nguyện cho con thoát khỏi lao tù, và giờ đây lại cầu nguyện quê hương được tự do dân chủ để con trở về cố hương. Tôi một đời luân lạc vì tự do, viết bài này như một lời tạ tội suốt đời làm cho mẹ buồn!
"Trước ngõ tuyết giăng màu tóc mẹ,
Quê người xuân đến mắt buồn se! Ðược tin mẹ bệnh lòng nôn nóng, Lời hứa chưa nguôi chẳng thể về! Thuở giặc tràn vào gieo nỗi sơ... Cảnh nhà tan tác mẹ bơ vơ Thân gìa còm cõi dầm sương nắng, Lặn lội tìm con, ngóng với chờ... Thế sự xoáy theo dòng thác lũ, Ðời ccon biền biệt mấy xuân thu! Bóng gầy thui thủi soi trên vách, Mỏi mắt trông con thoát ngục tù. Viễn xứ mây chiều vương dáng mẹ, Mắt buồn u uẩn mấy hàng tre Tuyết rơi tê tái hồn vong quốc, Mẹ xá cho con tội muộn về !"