(Việt Hải - NS Lam Phương - Tác Giả Quyên Di)
Hôm nay mừng sinh nhật thứ 80 của nhạc sĩ Lam Phương. Nhìn nhạc sĩ tươi tắn, vui cười, ai cũng vui.
Trong phòng, chúng ta cảm thấy ấm cúng vì tình thân dành cho nhạc sĩ Lam Phương và dành cho nhau. Đó là nói về “ấm,” nhưng nếu nói về “lạnh” thì không ai có thể ví von về cái lạnh tuyệt vời cho bằng nhạc sĩ Lam Phương. Ông đã từng viết: “Sương khuya rơi thấm ướt đôi mi. Tim em lạnh lẽo như chiều đông ngoài biên thuỳ.” Ôi Trời, còn có cái lạnh nào cho bằng cái lạnh của “chiều đông ngoài biên thuỳ”? Câu này trích trong nhạc phẩm “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” mà lát nữa tôi sẽ có dịp đề cập đến.
Tôi cũng vui như tất cả mọi người. Vì vui, tôi xin nói mấy câu vui vui trước khi nói chuyện nghiêm chỉnh.
Lam Phương là một nhạc sĩ đa tài và nhạc của ông đa dạng. Ông sáng tác đủ mọi đề tài, viết nhạc đủ mọi điệu, mọi loại. Nhiều bài hát của ông thực sự đã “sống mãi trong quần chúng.” Để đo lường xem nhạc sĩ nào chinh phục được lòng yêu mến của quần chúng nhất, chúng ta có thể đưa ra một thử nghiệm 100% đúng, là nhạc của nhạc sĩ nào được quần chúng “nhái lời, chế lời” nhiều nhất, nhạc sĩ ấy chinh phục được lòng yêu mến của quần chúng nhất. Có thông dụng và phổ cập đến độ có thể nói rằng ai cũng biết, cũng nghe, cũng hát thì bài hát ấy mới được quần chúng lấy ra nhái lời, chế lời.
Nếu áp dụng thử nghiệm ấy thì nhạc Lam Phương “treo giải nhất, chi nhường cho ai.” (Kiều).
Tôi đan cử vài thí dụ:
Bài “Khúc Ca Ngày Mùa” chẳng hạn. Bài này vui như một ngày hội, một đám rước, mà lại nhịp nhàng như điệu múa, hớn hở như tuổi thanh xuân. Vì thế mà từ các bé Tiểu học, các nữ sinh Trung học, các cô sinh viên Đại học cho đến các bà các cô đã “bước xuống cuộc đời” từ lâu lắm rồi vẫn thích hát và múa bài này. Tôi còn nhớ thời mình còn là ông thầy dạy học trẻ măng, có lần nhà trường tổ chức thi văn nghệ các lớp, thầy trò lo cuống quýt. Họp bàn, các cô nữ sinh đòi đóng góp tiết mục múa, mà bản nhạc để múa là “Khúc Ca Ngày Mùa.” Nhỏ Lan nói: “Bài này lớp mình múa nhiều lần rồi. Mà nghe nói lớp thầy T, tụi nó cũng múa Khúc Ca Ngày Mùa.” Nhỏ Vân đáp: “Tụi nó múa thì kệ tụi nó chớ. “Khúc” mình khác “khúc” tụi nó! Sợ gì!” Cuối cùng lớp tôi hướng dẫn cũng lại chọn đóng góp tiết mục múa “Khúc Ca Ngày Mùa.” Năm ấy, chương trình văn nghệ nhà trường có ba màn múa “Khúc Ca Ngày Mùa.” Thôi, cứ gọi là thi múa “Khúc Ca Ngày Mùa” cho nó tiện.
Mở đầu bài này, nhạc sĩ Lam Phương viết:
“Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát.
Ánh trăng thanh chiếu qua làng xơ xác.
Chiêu hồn quê bao khúc ca yêu đời...”
Quần chúng hát. Hát rồi thấm. Thấm rồi... chế:
“Nhà bên kia có con gà trống gáy.
Bắc nước sôi bỏ vô nồi (thì) hết gáy.
Rạng ngày mai đem xé phay (ăn) ngon lành.”
Chế tiếp:
“Kìa Na Tra với Ông Tề uýnh phép.
Có bao nhiêu phép Ông Tề thâu hết.
Thôi rồi Na Tra sắp thua Ông Tề.”
Chế nữa:
“Cười lên đi cho răng vàng sáng chói.
Hát lên đi để cho đời le lói.
Ta cười nhe răng để khoe răng vàng.”
Hoặc là bài “Duyên Kiếp.” Nguyên bản là: “Anh ơi nếu mộng không thành thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà tìm?” Quần chúng chế lời, trở thành: “Anh ơi nếu mộng không thành thì sao? Mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời!”
Kinh hồn nhất là bài “Kiếp Nghèo.” Đây là một bài “tango” có lời nguyên thuỷ rất lâm ly bi đát:
“Đường về đêm naу vắng tanh.
Rạt rào hạt mưa rớt nhanh.
Lạnh lùng mưa xuуên áo tơi, mưa chẳng уêu kiếρ sống mong manh.
Lầу lội qua muôn lối quanh.
Gậρ ghềnh đường đê tối tăm.
Ngậρ ngừng dừng bên mái tranh, nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi.
Êm êm tiếng hát ngân nga ôi lời mẹ hiền ru thiết tha.
Không gian tím ngắt bao la như thương đường về quá xa.
Mưa ơi có thấu cho ta lòng lạnh lùng giữa đêm trường.
Đời gì chẳng tình thương không уêu thương.
Thương cho kiếρ sống tha hương thân gầу gò gởi cho gió sương.
Đôi khi muốn nói уêu ai nhưng ngại ngùng đành lãng ρhai.
Đêm naу giấу trắng tâm tư gởi về người chốn mịt mùng.
Đời nghèo lòng nào dám mơ tình chung.
Trời cao có thấu, cúi xin Người ban phước cho đời con:
Một mái tranh уêu, một mối tình chung thủу không hề phai.
Và một ngàу mai mưa không nghe tiếng khóc trong đêm dài.
Đâу cả nỗi niềm biết ngàу nào ai thấu cho lòng ai.”
Quần chúng mê bài này, hát riết rồi chế lời thành:
“Đường về đêm nay tối thui.
Một mình tôi đang tới lui.
Thình lình cô không thấy tui cô đụng tôi, cô nói tôi đui.
Thiệt tình là tôi quá xui.
Tại vì khi không ủi tui.
Mập phì như con trâu thui, khi đụng tôi cô bước thụt lùi.
Đêm khuya phố chẳng ai qua cô làm gì mà đi giống ma.
Tôi đang đứng ngóng xe qua cô đụng nhằm, đau có cha.
Khi không cô đứng cô la rằng thì là dám dê bà.
Nàng đòi bồi thường ngay không tha.
Tôi than thở với cô em tôi không tiền và không có xe.
Đi xe “bus” mấy năm nay trong khi phòng thì còn phải “share.”
Cô em muốn lấy bao nhiêu mạng già này cũng xin cày,
Còn tiền thì kiếp sau hoạ may.
Trời cao có thấu, số đã nghèo sao cái xui còn theo.
Con xin cúng con heo,
Van lạy cho ngài cho chúng nó không còn đeo.
Và rồi từ nay đi đâu mang tấm bảng tui đang nghèo.
Ai muốn kiếm tiền thì đừng đụng vào, tôi không muốn ai nghèo theo.”
Bản nhạc chế này đã được đem lên sân khấu trình diễn mới kinh!
Nói chuyện nhạc nhái, nhạc chế theo nhạc Lam Phương thì còn dài, không biết bao giờ hết. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng nhạc Lam Phương rất phổ cập, rất đại chúng, rất được yêu mến.
(Nhạc Sĩ Lam Phương)
Giờ nói chuyện nghiêm chỉnh: Lam Phương sáng tác nhiều, có nhiều bài nổi tiếng, và trong những bài đó có những bài khiến nhạc Lam Phương gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc. Nhạc Lam Phương gắn bó với một quốc gia mà lãnh thổ trải dài từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau. Quốc gia ấy có tên gọi là Việt Nam Cộng Hoà.
Việt Nam Cộng Hoà được chính thức thành lập năm 1956. Trước đó, cuộc di cư khổng lồ của hơn một triệu người miền Bắc vào miền Nam năm 1954 đã là một biến cố lịch sử, nói lên ý chí xây dựng một quốc gia độc lập không cs. Sáu tuổi, tôi theo cha mẹ di cư vào Nam tìm tự do. Khi ấy thì những vị trưởng thượng, như giáo sư Trần Huy Bích chẳng hạn, đã là một thanh niên 18 tuổi với đôi mắt sáng và lý tưởng đẹp như ánh mặt trời. Chị Cao Mỵ Nhân cũng đã là một thiếu nữ đương xuân. Chỉ một vài năm sau, thằng bé nhạy cảm là tôi đã nghe rất nhiều bài hát của Lam Phương, trong đó có bài hát nổi tiếng “Chuyến Đò Vĩ Tuyến”. Bài hát này được phổ biến rất nhanh, lan tràn khắp nơi.
Sau này lớn lên, tôi nghĩ bài hát ấy được phổ biến nhanh và rộng như thế không phải vì chính sách chống Cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm, nhưng vì âm điệu cuốn hút lạ lùng của nó khiến cho ai hát, ai nghe cũng thấy lòng xao xuyến.
Ta cần nhớ lại giai đoạn đó: cuộc di cư bắt đầu được thực hiện từ tháng 7 năm 1954 và chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955. Về sau số người di cư đông quá nên chính quyền miền Bắc buộc lòng phải ưng thuận gia hạn thêm ba tháng nữa. Suốt trong giai đoạn có cuộc di cư, chính quyền miền Bắc tìm mọi cách ngăn cản làn sóng di cư. Họ đưa ra nhiều tin đồn, thí dụ như người di cư bị lùa xuống “tàu há mồm” rồi đổ xuống biển! Ở những vùng nông thôn, bộ đội công khai ngăn cản người dân bỏ làng ra đi khiến nhiều người trên đường lên Hà Nội rồi vào Nam đã phải lẩn trốn rất gian khổ để vượt qua những nút chặn.
Sông Bến Hải tại vĩ tuyến 17 là ranh giới hai miền Nam-Bắc. Có nhiều người ngay trong giai đoạn được phép di cư mà đã phải lặn lội trốn đến sông Bến Hải vĩ tuyến 17 này và tìm cách vượt tuyến vào Nam. Sau ngày 19 tháng 8 năm 1955, vẫn còn những người vượt tuyến, dĩ nhiên là phải trốn tránh.
Bài hát “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” tả cảnh một thiếu nữ đã vào được vùng đất tự do rồi nhưng người yêu của cô vẫn còn bị kẹt lại. Đêm đêm cô trở thành cô lái đò, lẩn khuất bên men sông chờ người yêu của cô “vượt rừng vượt núi đến đầu làng” mong tìm được đến điểm hẹn để cô chèo thuyền đưa chàng vào Nam. Cô chờ đợi khá lâu, vì Lam Phương viết: “Lênh đênh trên sóng nước mênh mông, bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng.” Chắc hẳn trong những đêm “lạnh lẽo chờ mong gặp bóng chàng” đó, cô đã gặp nhiều người tìm cách vượt tuyến khác, và trong đêm, cô đã chèo thuyền giúp họ vào được bờ bến miền Nam tự do.
Tôi cứ lấy làm lạ là tại sao Lam Phương, người nhạc sĩ miền Nam mà lại thấu hiểu hoàn cảnh và nỗi lòng của người Bắc di cư đến thế, để rồi viết nhạc phẩm “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” hay đến thế, tha thiết đến thế. Tôi muốn mạn phép thay mặt giáo sư Trần Huy Bích, nhà thơ Cao Mỵ Nhân, tất cả những người Bắc di cư và dòng dõi người Bắc di cư có mặt cũng như không có mặt ở đây hôm nay để kính gửi nhạc sĩ Lam Phương lời cám ơn chân thành nhất của chúng tôi về tấm lòng nhân ái và đầy cảm thông của ông khi viết nhạc phẩm này.
(Thi Sĩ Bàng Bá Lân)
Người miền Bắc vào Nam và tức thời yêu mến đất miền Nam, người miền Nam. Bàng Bá Lân viết bài thơ “Tôi Yêu Tiếng Việt Miền Nam” với những lời lẽ vừa thân mật vừa tha thiết:
“Tôi yêu tiếng Việt miền Nam,
Yêu con sông rộng, yêu hàng dừa cao.
Yêu xe thổ mộ xôn xao
Trên đường khúc khuỷu đi vào miền quê.
Tôi yêu đồng cỏ nắng se,
Nhà rơm trống trải, chiếc ghe dập dềnh.
Tôi yêu nắng lóa châu thành,
Trận mưa ngắn ngủi, gió lành hiu hiu.
Nơi đây tôi mến thương nhiều,
Miền Nam nước Việt mỹ miều làm sao!
Xa xôi hằng vẫn ước ao
Vào thăm vựa lúa xem sao, hỡi mình!
Chừ đây tình đã gặp tình,
Tưởng như trong đại gia đình đâu xa.
Người xem tôi tựa người nhà,
Người kêu thân mật tôi là: Thầy Hai!
Ðồng bào Nam Việt ta ơi!
Tôi yêu cặp mắt làn môi thiệt thà.
Nước non vẫn nước non nhà,
Trong khi đó, bản nhạc “Nắng Đẹp Miền Nam,” lời của Hồ Đình Phương, Lam Phương viết nhạc theo điệu Rumba, bản nhạc mà, theo tôi, là một trong những bản nhạc hay nhất, ý nghĩa nhất, tả về sức sống vươn lên của Việt Nam Cộng Hoà, tức miền Nam Việt Nam:
“Đây trời bao la ánh nắng mai hé đầu ghềnh lan dần tới đồng xanh.
Ta cùng chen vai đem tay góp sức tăng gia cho người người vui hòa.
Đường cày hôm qua nay lên tràn bông lúa mới, ôi duyên dáng đồng ơi!
Đến mai sẽ là ngày muôn hạt chín lả lơi…
Mình ngắm nhau cười…”
Ngoài tôm cá tươi ngon, ruộng lúa chín vàng, miền Nam còn là vựa cây trái. Những sầu riêng, măng cụt, chôm chôm, bòn bon… Những vú sữa, xoài ngọt, xoài tượng, ổi xá lị… làm bà con Bắc kỳ di cư ăn hoài mà không biết ngán!
Và mãng cầu, mà có nhiều người gọi một cách thanh nhẹ hơn là măng cầu, mới ngon ngọt làm sao! Những trái măng cầu dai, măng cầu bở thơm ngát, ngọt lịm, ai mà không mê? Lại còn thứ măng cầu xiêm trái to, vỏ có gai, xẻ ra ăn thấy vị chua chua ngọt ngọt thật lạ miệng, còn đem xay làm nước “sinh tố” thì quả là một món giải khát tuyệt vời.
Vì vậy mà tôi mê măng cầu từ khi mình còn nhỏ tuổi lắm. Thế rồi tôi thấy trong bài hát “Nắng Đẹp Miền Nam” có xuất hiện… trái măng cầu, mà trái măng cầu này được tôn vinh đến độ nó quý giá ngang hàng với sức đấu tranh của người lính chiến đem lại hoà bình cho Đồng Tháp, Cà Mau:
“Khi người lính chiến đã đấu tranh hiến hoà bình cho Đồng Tháp Cà Mau
Ta người nông thôn quên sương gió góp gian lao lo được mùa măng cầu.”
Thế mới biết là măng cầu nó quý, bất kể nó là măng cầu dai, măng cầu bở hay măng cầu xiêm!!!
Về sau này, lớn lên, tôi mới biết là mình đã hiểu lầm lớn! Hồ Đình Phương và Lam Phương viết là “lo được mùa mong cầu”, tức là “lo được mùa như ước muốn” mà tôi cứ tưởng hai ông tôn vinh trái măng cầu đến tận mây xanh!
Nắng Đẹp Miền Nam
(Thực Hiện youtube:Ngoannhan)
Đến bây giờ, khi có dịp nghe lại bài “Nắng Đẹp Miền Nam” của Lam Phương, hoặc có khi ngồi lẩm bẩm hát một mình bài hát này, tôi vẫn cứ cười… vu vơ khi nghe hoặc khi hát đoạn gần cuối:
“Khi người lính chiến đã đấu tranh hiến hoà bình cho Đồng Tháp Cà Mau
Ta người nông thôn quên sương gió góp gian lao lo được mùa mong cầu.
Nhờ tình quân dân gây bao niềm thương ấm cúng non sông đón bình minh.
Gắng lên với ngày này ta cùng tưới đồng xanh…
Rồi sống no lành.”
Bài hát hay quá! Và trái măng cầu (của tôi) cũng thơm ngọt, đáng quý quá! Với lại cái đoạn này cho người ta thấy tình quân dân cá nước của người miền Nam Việt Nam. Một đằng kiên cường chiến đấu để bảo vệ đồng bào và mảnh đất quê hương. Một đằng quên lao nhọc, tăng gia sản xuất để làm giàu, làm đẹp quê hương. Cả hai nghĩ về nhau, cùng nghĩ đến quê hương mà chiến đấu và lao động. Đó chính là động lực kiến tạo miền Nam Việt Nam trù phú, người dân Việt Nam ấm no, hạnh phúc.
Nhưng vận mệnh Việt Nam Cộng Hoà là một vận mệnh đầy cay nghiệt. Trên bàn cờ quốc tế, con cờ Việt Nam Cộng Hoà đã trở thành con cờ thí và bị bức tử, mặc dù người dân Việt Nam Cộng Hoà yêu chuộng tự do tha thiết và quân lực Việt Nam Cộng Hoà là một quân lực thiện chiến bậc nhất, kiên cường bậc nhất, hy sinh bậc nhất, yêu dân tộc, yêu đồng bào bậc nhất.
Sống tị nạn ở nước người, người dân miền Nam Việt Nam vẫn mơ về quê hương cũ, với Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ...
Đất Cần Thơ tươi đẹp, mỹ miều vốn được gọi là Tây Đô. Bài “Chiều Tây Đô” viết theo nhịp Bolero rất tâm tình, lôi cuốn. Ngày kia, có chàng tị nạn sống lơ ngơ giữa quê người mà mơ mình trở về Tây Đô:
Một đêm anh mơ mình ríu rít đưa nhau về
Thăm quê xưa với vườn cau thề.
Nhưng dường như Tây Đô bây giờ không còn là Tây Đô ngày xưa:
Bàn tay anh đan dìu em bước trên cỏ khô
Đi trong hoang vắng chiều Tây Đô.
Bờ sông yêu xưa tà áo thướt tha mỹ miều
Sao anh không thấy về Ninh Kiều?
Dường như em nghe đời nặng trĩu trong màu đen
Đen như manh áo buồn chưa quen.
(Thực Hiện Youtube: Phạm Sai Lầm)
Tây Đô buồn. Người Tây Đô buồn, bởi vì sau ngày đau thương ấy thì:
Hỏi cỏ cây, cỏ cây khóc... Gió than van: kể từ khi... mất quê hương, gió ra khơi.... đưa người vượt biển.
Mẹ chờ thư về ngồi thèm thuồng miếng trầu cay.
Trẻ thơ lang thang vì cơn đói suốt bao ngày.
Vợ chờ tin chồng ngày, về quá xa xăm...
Để rồi người ta phải thốt lên câu hỏi đầy phẫn uất: “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh?”
Tuy nhiên, Lam Phương có cái nhìn lạc quan về dòng sinh mệnh dân tộc. Ông tin có một ngày “Tây Đô sẽ sống lại yêu thương,” vì “tàu đưa ta đi tàu sẽ đón ta hồi hương.” (*)
Ba bài hát tượng trưng cho ba giai đoạn của dòng sinh mệnh dân tộc và đất nước. “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” là bài hát điển hình cho giai đoạn khai mở quốc gia Việt Nam Cộng Hoà. “Nắng Đẹp Miền Nam” là bài hát điển hình cho giai đoạn miền Nam Việt Nam tức Việt Nam Cộng Hoà phát triển, người dân no cơm ấm áo, quân dân đoàn kết một lòng bồi đắp và gìn giữ quê hương. “Chiều Tây Đô” là bài hát điển hình cho giai đoạn nước mất nhà tan, nhưng trong đau thương, người Việt xa xứ vẫn nuôi lòng lạc quan về một ngày trở lại quê hương, xây dựng lại đất nước.
Cho nên, tôi xin nghiêm chỉnh thưa rằng: Lam Phương và nhạc Lam Phương đã gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc và đất nước.
Quyên Di
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét