Lê Cảnh Tuân sinh năm 1350 (Canh Dần) người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, trấn Hải Dương xưa (nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Tuy nhiên, nguyên quán của ông lại là ở hương Lão Lạt, huyện Thống Bình, châu Ái, trấn Thanh Đô (nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa), sau mới dời ra nơi ấy.
Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết Lê Cảnh Tuân đỗ thi Hương (cử nhân) khoảng năm Xương Phù (niên hiệu của Trần Phế Đế, ở ngôi: 1377-1388).
Đến năm 1381, thì ông đỗ Thái học sinh (được xem là tương đương học vị Tiến sĩ sau này).
Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, tự lên ngôi vua, lập nên nhà Hồ. Tức giận, ông bày mưu khuyên bạn thân là Bùi Bá Kỳ (một tỳ tướng của Trần Khát Chân) sang Yên Kinh (Bắc Kinh, Trung Quốc ngày nay) xin quân đánh Hồ.
Năm 1406, nhà Minh mượn cớ "phù Trần diệt Hồ" sang xâm lược nước Việt. Do Bá Kỳ làm tiên phong dẫn đường [3], ngày 12 tháng 5 (âm lịch) năm Đinh Hợi (1407), Hồ Quý Ly và hai con (Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương) đều bị quân đối phương bắt sống tại Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh), rồi bị áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc). Kể từ đó, nhà Hồ mất, cả nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh.
Lập được công lớn, Bùi Bá Kỳ được nhà Minh cho làm chức Hữu tham nghị. Thất vọng vì biết vua quan nhà Minh không có ý định tái lập nhà Trần, năm Hưng Khánh thứ nhất (1407) đời vua Giản Định Đế, ông viết Vạn ngôn thư (Bức thư một vạn chữ) khuyên Bùi Bá Kỳ yêu cầu nhà Minh giữ lời hứa (xem bức thư ở bên dưới).
Gặp khi Bá Kỳ vì cớ khác phải tội, quân Minh đến khám nhà Bá Kỳ bắt được bức thư của ông, nên truy lùng bắt tác giả. Lê Cảnh Tuân phải đổi tên đi trốn một thời gian.
Năm 1411, quân Minh lập Giao Châu học hiệu tại Thăng Long, ông muốn đến xem. Nghe con ông thiết tha ngăn cản, ông nói:
Nhà ta đời đời ăn lộc (nhà Trần). Một bức thư "Vạn ngôn" đã tiết lộ không thành. Nay ta hết lòng thành báo nước, dù chết còn vinh, tiếng trung nghĩa muôn đời còn ghi ở sử xanh. Ta có sợ gì.
Nói rồi ông giả làm người khách đến chơi, nhận chức dạy học với ý định ngầm thu phục chí sĩ để tính việc phục quốc. Việc bại lộ, ông và người con là Lê Thái Điền đều bị quân Minh bắt giải về Yên Kinh (Bắc Kinh). Minh Thành Tổ hỏi ông rằng: "Mày khuyên Bá Kỳ âm mưu làm phản. Vì sao vậy?" Ông nói: "Người Nam thì mong nước Nam còn. Chó ông Trích thì cắn người không phải chủ nó. Hỏi làm gì?"
Theo Lịch triều hiến chương loại chí và Đại Việt sử ký toàn thư, vua Minh tức giận, giam cha con ông vào ngục Kim Lăng (Nam Kinh), được 5 năm (1416, tức năm Bính Thân) thì đều mắc bệnh chết. Tuy nhiên, Từ điển bách khoa Việt Nam lại cho rằng cha con ông mất ở Yên Kinh (Bắc Kinh).
Nguyên Nhật
Lữ quán khách nhưng tại,
Khứ niên xuân phục lai.
Quy kỳ hà nhật thị?
Lão tận cố hương mai.
Lê Cảnh Tuân
***
Dịch nghĩa:
Vẫn làm khách ở nơi quán trọ,
Mùa xuân năm ngoái lại trở về.
Ngày về biết lúc nào,
Cây mai nơi vườn cũ đã cỗi hết!
Dịch Thơ:
(1) Ngày Đầu Năm
Vò võ bên trời nơi khách quán
Xuân năm rồi lãng đãng ngoài song.
Ngày về ai biết mà mong,
Mai già vườn cũ cõi lòng nát tan.
(2)
Bên trời nơi khách quán,
Xuân năm ngoái lại về
Bao giờ được quay gót,
Xót mai già chốn quê
Mailoc
***
Dịch Thơ:
Dịch Thơ:
Ngày Đầu Năm
1/
Vẫn còn nơi quán trọ
Xuân đến lúc năm tàn
Chưa biết ngày trở lại
Sợ vườn mai úa vàng.
2/
Mình còn nơi quán trọ nầy
Năm tàn xuân đến dạ đầy nhớ thương
Bao giờ về lại quê hương
Chắc mai già cỗi nơi vườn nhà xưa.
Quên Đi
***
1. Bản tiếng Hán cổ của bài thơ:
1/
Vẫn còn nơi quán trọ
Xuân đến lúc năm tàn
Chưa biết ngày trở lại
Sợ vườn mai úa vàng.
2/
Mình còn nơi quán trọ nầy
Năm tàn xuân đến dạ đầy nhớ thương
Bao giờ về lại quê hương
Chắc mai già cỗi nơi vườn nhà xưa.
Quên Đi
***
1. Bản tiếng Hán cổ của bài thơ:
元日 Nguyên Nhật
旅館客仍在, Lữ quán khách nhưng tại,
去年春復來。 Khứ niên xuân phục lai.
歸期何日是? Quy kỳ hà nhật thị ?
老盡故園梅。 Lão tận cố viên mai!
黎景詢 Lê Cảnh Tuân
2. Chú thích:
* Nguyên Nhật : là Ngày đầu, ta phải hiểu là Ngày Đầu Của Một Năm, như chữ Nguyên Đán.
* Nhưng : là Vẫn, Vẫn Cứ...
* Phục : là Lại, là Trở lại.
* Quy Kỳ : Cái kỳ hạn trở về, là Ngày Về.
* Lão Tận : là Già đến tận cùng, là Già khú,già chát, già khằng !
3. Nghĩa Bài Thơ:
Người khách tha hương vẫn còn ở nơi quán trọ nầy, nhưng mùa xuân của năm rồi, năm nay lại trở lại. Biết ngày nào mới là ngày về đây ? Chắc cành mai già ở quê nhà đã già cỗi hết rồi!
Não nùng thay tâm trạng của người lìa quê xa xứ trong những ngày xuân đến Tết về. Cội mai già còn cằn cỗi huống hồ chi là các đấng sanh thành chắc cũng không tránh khỏi buồn thương sầu não mà càng héo tàn lụm cụm!
4. Diễn Nôm:
Mùng Một Tết
Khách còn nơi quán trọ,
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !
Lục bát:
Trọ nơi lữ quán khách còn
Mùa xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê ?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu !
Xuân năm trước lại sang.
Biết ngày nao trở lại ?
Cội mai đã cỗi tàn !
Lục bát:
Trọ nơi lữ quán khách còn
Mùa xuân năm trước lon ton lại về
Ngày nao mới được hồi quê ?
Cội mai vườn cũ xuân về khẳng khiu !
Đỗ Chiêu Đức
01-17-2018
***
Ngày Đầu Năm
Than ơi xuân lại trở về
Thân ta đất khách lê thê năm dài
Bao giờ quê cũ đáo lai?
Vườn xưa e cỗi cành mai mất rồi!
Kim Oanh
***
1/
Ngày Đầu Năm
Khách vẫn còn nơi quán trọ này
Mùa xuân năm ngoái lại về đây
Ngày hồi hương vẫn xa mù mịt
Thương gốc mai già cỗi lắm thay!
Mùa xuân năm ngoái lại về đây
Ngày hồi hương vẫn xa mù mịt
Thương gốc mai già cỗi lắm thay!
2/
Ngày đầu năm
Khách còn trọ ở quán này
Thêm mùa xuân nữa lạc loài xa quê
Chắc rằng đến lúc trở về
Cội mai vườn cũ thảm thê cỗi tàn
3/
Ngày đầu năm
Khách còn nơi quán trọ
Lại một mùa xuân qua
Hẳn ngày về quê cũ
Mai vườn xưa đã già!
Phương Hà
***
1/
Ngày Đầu Năm
Lữ quán khách còn ở
Xuân năm ngoái lại về
Biết ngày mô trở lại
Cội mai cỗi vườn quê
2/
Tết Nguyên Đán
Vẫn còn lữ khách trọ nơi này
Xuân cũ năm qua lại tới đây
Chẳng biết ngày nao về cố xứ
Vườn xưa còm cõi gốc cây mai
Mai Xuân Thanh
Ngày 25/01/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét