Trương Hỗ 張祜 Zhāng Hù
Nguyên bản: Phiên âm:
雨霖鈴 Vũ Lâm Linh
雨霖鈴夜卻歸秦 Vũ Lâm Linh dạ khước quy Tần
猶是張徽一曲新 Do thị Trương Huy nhất khúc tân
長說上皇垂淚教 Trường thuyết Thượng hoàng thùy lệ giáo
月明南內更無人 Nguyệt minh Nam nội cánh vô nhân
Bài thơ có mộc bản trong các sách:
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 樂府詩集-宋-郭茂倩
Thu Giản Tập - Nguyên - Vương Uẩn 秋澗集-元-王惲
Đường Thi Phẩm Vị - Minh - Cao Bính 唐詩品彙-明-高棅
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁
Sách Quách Mậu Thiển ghi tựa là Lâm Linh Nhị Khúc 霖鈴二曲. Các sách khác ghi tựa Vũ Lâm Linh với chữ Lâm viết khác nhau:
霖 với bộ 雨vũ = mưa dầm, mưa dai dẳng
淋 với bộ 水thủy = mưa phùn, ướt đầm, ngâm nước
Sách đời Thanh cho dị bản trong câu 2 見kiến thay vì 是thị và xài chữ 和hòa thay vì 垂thùy trong câu 3.
Sách Cao Bính đời Minh có ghi chú đầy đủ truyền thuyết về nguồn gốc của ca khúc Vũ Lâm Linh gồm 2 câu chuyện, một trên đường đến Thục và một khi đã trở về lại Trường An, như sau:
Sử ký Minh Hoàng ghi lại rằng Hoàng đế đã đến đất Thục, phía nam Tứ Xuyên, và đi vào một thung lũng hẹp, nơi có mưa trong mười ngày. Trên con đường lót ván, ông nghe tiếng chuông ngựa hòa âm với núi rừng. Ông thương tiếc Dương Quý phi đã bị bức tử nên đã đưa những âm thanh đó vào bản nhạc Vũ Lâm Linh để bày tỏ nỗi buồn của mình. Vào thời điểm đó, chỉ có Trương Huy张徽, một nhạc công tài giỏi ở Độc Lê Viên独梨园, theo ông đến Tứ Xuyên và giúp phổ biến ca khúc này.
Đến thời Chí Đức, loạn An Lộc Sơn đã dẹp yên, Minh Hoàng trở lại Hoa Thanh Cung华清宫, tất cả phi tần và cung nữ đều không còn như trước nữa. Hoàng đế ra lệnh cho Trương Huy diễn lại ca khúc Vũ Lâm Linh tại Vọng Kinh Lâu望京楼, ông cảm thấy buồn đến nỗi bật khóc. Sau đó bài hát được chép vào Pháp Bộ法部.
Sách của Thánh Tổ Huyền Diệp đời Thanh có nhắc lại một phần câu chuyện Đường Minh Hoàng và ca khúc Vũ Lâm Linh.
Ghi chú:
Vũ Lâm Linh: là một tạp khúc ca từ của Giáo Phường thời Đường, sau nó trở thành tên của một điệu từ với 103 chữ chia làm 2 đoạn: đoạn 1 gồm 10 câu với 5 vần trắc, đoản 2 gồm 9 câu với 5 vần trắc.
Tần: nhà Tần thống nhất Trung Hoa năm 221 TCN, chỉ đất nước Trung Hoa thời bấy giờ
Do thị: nó vẫn như cũ
Trương Huy: là Trương Dã Hồ 张野狐, một nhạc sĩ trong cung điện, giỏi về không hầu 箜篌, một thứ nhạc cụ ngày xưa, giống như cái đàn sắt nhỏ.
Nam nội: cung điện Hưng Thanh ở Trường An vào thời nhà Đường, nằm ở phía Nam cung Bồng Lai, ban đầu đây là nơi ở của Đường Huyền Tông khi ông còn là chư hầu nên được gọi là "Nam nội"
Dịch nghĩa:
Vũ Lâm Linh
Vũ Lâm Linh dạ khước quy Tần
Do thị Trương Huy nhất khúc tân
Trường thuyết Thượng hoàng thùy lệ giáo
Nguyệt minh Nam nội cánh vô nhân
Tiếng Chuông Trong Đêm Mưa Dầm
Ta trở về đất Tần vào đêm mưa dầm trong tiếng chuông ngựa,
Tai vẫn còn nghe thấy bài hát mới của Trương Huy.
Hoàng đế thường nói về bài học đầy nước mắt của mình,
Dưới ánh trăng cung điện phía Nam không một bóng người.
Vào một đêm mưa dầm, Đường Minh Hoàng trở về Trường An từ đất Thục Trung. Cuộc khởi nghĩa An Sử đã kết thúc, nhưng tình cảnh của Đường Minh Hoàng cũng giống như bài Vũ Lâm Linh do nhạc sĩ Trương Huy trình tấu.
Người ta kể lại rằng Đường Minh Hoàng rơi lệ vì nhớ Dương Quý Phi khi nghe lại khúc Vũ Lâm Linh. Dưới ánh trăng sáng, trong cung Nam Cung tĩnh lặng không bóng người, Đường Minh Hoàng buồn bã cô đơn.
Dịch thơ:
Tiếng Chuông Trong Đêm Mưa Dầm
Trở lại Trường An đêm mưa dầm,
Tai còn văng vẳng khúc Vũ Lâm.
Khi nghe Minh Hoàng mắt đẫm lệ,
Trăng sáng cung Nam vắng âm thầm.
Bell Ringing In A Rainy Night by Zhang Hu
Emperor Minghuang returned to Changan on a rainy night,
He still heard the new song Yu Lin Ling by court musician Zhang Wei.
It was told that the emperor cried when he heard the song again,
Under the bright moon, the Southern Palace was without a soul.
Phí Minh Tâm
***
Góp Ý:
... sai Dã Hồ làm hai khúc Vũ-lâm-linh và Hoàn-ai-nhạc.
Câu này có thể không đúng với thực tế, hay do người dịch hiểu sai. Theo trang 雨霖铃=Vũ tâm linh - zh.Wikipedia này, lúc Đường Huyền Tông từ Thục về lại Tràng An, đi qua sạn đạo ở Tà Cốc (địa danh ở Thiểm Châu liên hệ với Gia Cát Lượng trong Tam Quốc Chí) thì mắc mưa dầm 10 ngày, nghe tiếng chuông và nhớ Dương quý phi, nên chọn điệu mạn vũ lâm linh (và hoàn ai nhạc) rồi sai nhạc công Trương Dã Hồ tấu - không phải hát - với kèn tất lật. Chữ 采=thái trong câu 采其聲為 (thái kỳ thanh vi) có nghĩa là chọn/lựa. Hai điệu nhạc giáo phường đó đã có từ thời Đường nhưng soạn giả là ai thì có lẽ không ai biết. Từ bài vũ lâm linh còn có tên là vũ lâm linh mạn (雨霖铃慢).
猶見張徽一曲新=do kiến Trương huy nhất khúc tân
張=Trương thì đúng là họ Trương nhưng "Trương huy" không phải là tên của Trương Dã Hồ vì 徽=huy có nghĩa là đàn/tấu! Chủ từ của câu thứ nhì này ẩn dụ và làm bài thơ khó hiểu, một phần vì từ 新=tân (nghĩa là mới) chỉ có thể hiểu như là một trạng từ với nghĩa (trong) lần đầu. Ai 見=kiến/gặp bài nhạc lần đầu? Phải chăng Trương Hỗ muốn nói là người nào đó gặp bài vũ tâm linh này lần đầu truyền lại đời sau huyền thoại thái thượng hoàng khóc vì không còn quý phi dưới trăng ở nội điện hướng nam?
Huỳnh Kim Giám