Thứ Sáu, 26 tháng 4, 2024

Hờn Vong Quốc


Ly khách bao năm sống dãi dầu
Mối hờn vong quốc gửi về đâu?
Tang thương từ độ tràn sông núi
Chiến mã bên trời mỏi vó câu
Ai khóc đời tàn trong ngõ hẹp (1)
Ta về bóng đổ giữa đêm thâu
Ngậm ngùi nhớ lại dòng thơ cổ:
Thù trả chưa xong, bạc mái đầu! (2)

Nguyễn Kinh Bắc
(1) Đời Tàn Trong Ngõ Hẹp : thơ Vũ Hoàng Chương
( 2) Thuật Hoài : thơ Đặng Dung



Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

The Simpson Essay Competition - The Anzac Spirit By Dan Vo (Melbourne 25.4.1998)


Melbourne 25.4.2024

Hoàng Đan Yêu thương của mẹ.

Nhớ ngày nào, con mới học học lớp 9 trường Trung Học Parade College, Bundơra. Victoria. 
Con đã được trúng giải Nhất viết Văn toàn quốc về ngày Anzac Day 25. 4.1998. Bao nhiêu nỗi mừng vui con đã dành cho gia đình.

Nhất là mẹ, thật sự xúc động đến rơi nước mắt và run lên. Y như là ngày mẹ đi dò danh sách trúng tuyển vào Đệ Thất vậy.
Những tờ báo chính mạch; The Age, Herald Sun, TV Tuần San đã phỏng vấn và viết nhiều về con.
Bên cạnh đó xướng ngôn viên Đài Phát Thanh Việt Ngữ SBS, Radio Úc liên tục gọi điện thoại đến phỏng vấn. Mẹ lo lắng con không đủ tiếng Việt để trả lời, mẹ phập phòng lắng nghe từng câu hỏi và con trả lời. Mẹ hết sức bất ngờ con đã trả lời một cách lưu loát. 

Mẹ sẽ gửi con buổi phát thanh cuộc phỏng vấn của cô Xướng Ngôn Viên Phượng Hoàng, và bài dịch ra tiếng Việt của Bác Xướng Ngôn Viên Quốc Việt sau con nhé.
 
Những câu con trả lời, đã dành cho mẹ biết bao tình cảm yêu thương, xóa đi những nỗi cơ cực trong suốt 15 năm nuôi con khôn lớn. Đó cũng là món quà quý nhất con dành  cho Ông Bà Ngoại, ông bà đã thường xuyên chỉ dạy thêm tiếng Việt cho con.

Ngày Anzac 1999 con đã được đài thọ đi Thổ Nhĩ Kỳ đễ tham dự Lễ tưởng niệm những chiến binh Úc đã hy sinh. Đó cũng là lần đầu tiên con rời khỏi vòng tay của mẹ để bước đi vững vàng hơn. Mẹ đặc niềm tin tưởng vào con và con cũng đã cho mẹ sự bình tâm vui sống.

Mới đó thấm thoát 25 năm rồi đó con. Hôm nay mẹ cố gắng gom góp những kỷ niệm của con để tưởng nhớ đến những người chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến, dành tự do, độc lập cho đất nước và dân tộc. Mà ngày nay chúng ta trở thành một công dân Úc, được hưởng ấm no hạnh phúc ở đất nước này. Mãi mãi ghi nhớ công ơn này nhé các con!
  
Mẹ cám ơn Nước Úc, nơi đã tạo điều kiện tốt về giáo dục, thầy cô Úc và Việt trao dồi cho con một kiến thức trở thành người hữu dụng ngày hôm nay. 

Tạ ơn Tổ Tiên, Ông bà, Đấng Trên Cao đã cho con một tinh thần sáng suốt, cuôc sống lành mạnh, tương lai tốt đẹp trong cuộc đời con. 

Cám ơn con trai của mẹ, mẹ rất hãnh diện về con.💓

Thương yêu con!

Mẹ Lê Thị Kim Oanh
Melb.25.4.2024


The Simpson Essay Competition

Dan Vo
Parade College
Victoria

An Australian soldier, or any Australian, of today has a lot to live up to; he/she has to preserve the honor and spirit of past Anzac soldiers - soldiers who created the Anzac spirit, a spirit full of compassion, courage, endurance and fierce determination. It is a spirit that became a tradition that has lasted nearly a century; the spirit and tradition celebrated by Australians every year. This is the spirit and tradition that turned Australia into a compassionate nation, respected by the world. As Sir Keith Murdoch wrote in a letter to former Australian Prime Minister Andrew Fisher: "...if you could picture Anzac as I have seen it, you would find that to be an Australian is the greatest privilege the world has to offer..."1

The Gallipoli Campaign, aimed at forcing Turkey out of World War I, was, from the start, plagued with errors and problems. The first Anzac landing was three kilometers off course. The Turks, hiding in the mountains, expecting an attack, opened fire. Anzac soldiers tried to fight back, but it was hopeless. The Turks had machine guns and were entrenched in strategic sites. The Anzacs had unloaded rifles, wore heavy clothing and were stranded on the beaches. Before the first day passed 2000 Anzac soldiers were killed. Countless more were fatally wounded. This is just one example of the many things that went wrong, and caused the deaths of thousands of Anzac soldiers.
It was these events that shaped the Anzac spirit. Before the landing, the Anzac soldiers had distinguished themselves not as Australians, as a whole, but as Western Australians, South Australians etc. It wasn't until they landed, and saw the dead and wounded, that they saw the impact of war. It wasn't until the landing that they realized that they were all connected in some way. War was, as The Sydney Morning Herald put it, the Anzac's "baptism of fire".2 On that day they realized they were Australians.

The Gallipoli Campaign was supposed to have lasted only two weeks, but dragged on for months. Death, disease, famine and enemy snipers surrounded the tired soldiers. There was no escape. However the soldiers sought no escape. C.E.W. Bean, the official Australian war historian, asked, "What motive sustained them?" and answering his own question, replied, "It was in the mettle of the men themselves ... life was very dear, but life was not worth living unless they could be true to the idea of Australian manhood. Standing upon that alone ... when the world seemed to crumble ... they faced its ruin undsmayed3." To be Australian was very important to the soldiers. To support Australia was even more important to the soldiers. From this determination, came more qualities that have become a part of the Anzac spirit.
Through all the severe fighting and bad living conditions, the Anzacs learnt endurance and humour. From the impossibility of their tasks and missions, they learnt camaraderie and courage. From the deaths of their mates, they learnt sacrifice and honor. Every member of the Anzac force possessed each of these qualities, and more.

On the day of the landing, when soldiers were being killed in the hundreds, a courageous and caring soldier appeared. He, having found a donkey, picked up wounded soldiers and bought them to the beach. His efforts to help the dying were heroic, and he risked his life to save people. In him was the Anzac spirit He had compassion, to think about the dead. He had courage, to walk over the trenches to pick up the dead soldiers. He had determination, to get the wounded soldiers back. He had endurance, to do it over and over again. The person referred to is, of course, John Simpson Kirkpatrick, "the symbol of all that was pure, selfless and heroic on Gallipoli.4
The subsequent conflicts that the Anzacs were involved in strengthened the. ANZAC spirit This is seen in the continuity of the tradition at Tobruk, on the Kokoda trail, in Korea, in Malaya, in Borneo, in Vietnam and, most recently, in Kuwait.
The Anzac tradition and spirit is, today, the most meaningful part of our heritage. When the Gallipoli Campaign began, Australia was young, still looked after and cared for by the Empire. After the war Australia was noted and respected by other countries. Australia became a nation, capable of fighting for itself, capable of independence.

The Anzac spirit brought about this freedom. The spirit taught us mateship, endurance and the value of life. As Peter Weir, director and writer of the film, Gallipoli wrote "our story became more about the journey than the destination, about people rather than events.5" Thus it does not matter where the soldiers were, or who won the war. It matters, more what the soldiers did. Admirable deeds done by soldiers, such as Simpson, are simple, unselfish actions of enduring heroic significance. Deeds that justify the biblical words "Greater love hath no man than this, that a man lay down his life for his friends6" are deeds that are worth glorifying and preserving.
Eighty-three years ago humble soldiers set foot on enemy shores to fight a war for their empire, the British Empire. Eight months later the soldiers, with the same humility, left having fought a war for their country, Australia. Last December, Alfred Douglas Dibley passed away. He was with the Anzacs when they first landed in Gallipoli. He was the last one to die. The Minister for Veterans Affairs, Bruce Scott, stated at Dibley's funeral, "He was one of the ... brave men who created for this country the Anzac legend… the spirit of courage, mateship and determination. These are the qualities from which we have drawn our national identity.7"

Australia owes gratitude to the Anzac soldiers. They made us a nation. They sacrificed their lives for something that they believed was right. And they have etched their beliefs into the pages of Australian history. The Anzac spirit and tradition will forever be with us, as long as we still believe...

Bibliography:

Adam-Smith P., The Anzacs Nelson, Melbourne, 1978.
Anon., Death of Ted Matthews www.dva.gov.au/media/prers/dec97/dthtedm.htm, 1998
Anon, Shrine of Remembrance Melbourne, The National War Memorial of Victoria, The Wilson Creative Group, Melbourne, 1989.
Coulthard-Clark C.D., A Heritage of Spirit, Melbourne University Press, Melbourne, 1979.
Denton K., Gallipoli Illustrated, Rigby, Adelaide, 1982.
Fitzpatrick G., Anzac Day, Past and Present, The Australian War Memorial, Canberra, 1992-
Hart D.M., Response to War, www10.pair.com/crazydv/weir/gailipoli/hart.htm, Adelaide, 1997.
Macdougall A.K., Anzacs - Australians at War, Reed, Sydney, 1991.
Mason, K.J. Experiences of Nationhood, Australia and the World since 1900, McGraw Hill, Sydney, 1992.
Nairn B. Serle G., Australian Dictionary of National Biography, Vol. 9. Las-Gil, Melbourne University Press, Melbourne, 1983.

(Những Huy Hiệu mang trên chuyến đi Tưởng Niệm ngày ANZAC DAY, ở Turkey 1999)

Võ Lê Hoàng Đan

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2024

Khắc Khoải Về...


Melbourne trời lạnh mấy hôm nay
Mưa đổ cầm canh đêm lẫn ngày
Thu đến lòng vương càng nhớ bạn
Mơ hoài kỷ niệm mộng trùng lai

Melbourne sắc úa cả tuần nay
Rơi rụng tả tơi lá những đài
Xót dạ góp vần thơ gửi đến
Nhờ cơn gió quyện lạc vào tay

Melbourne khắc khoải buổi chiều nay
Ký ức tháng Tư khắc khoải hoài
Trăn trở quê hương niềm khổ lụy
Nằm gai nếm mật …thấm ngày ngày...

  
Ảnh & Thơ: Kim Oanh

 

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2024

採桑子 - 賀鑄 Thái Tang Tử - Hạ Chú

 
 
採桑子 - 賀鑄 Thái Tang Tử - Hạ Chú

羅敷歌 其四   La Phu Ca Kỳ 4

自憐楚客悲秋思, Tự lân Sở khách bi thu tứ,
難寫絲桐。 Nan tả ty đồng.
目斷書鴻, Mục đoạn thư hồng.
平淡江山落照中。 Bình đạm giang sơn lạc chiếu trung.

誰家水調聲聲怨, Thùy gia thủy điệu thanh thanh oán,
黃葉西風。 Hoàng diệp tây phong.
罨畫橋東, Yểm họa kiều đông.
十二玉樓空更空。 Thập nhị ngọc lâu không cánh không.

Chú Thích:

1- Thái tang tử 採桑子 còn viết là 采桑子 nguyên là một khúc ca của Đường giáo phường, sau dùng làm từ bài. Hạ Chú làm 5 bài thái tang tử mà ông đặt tên là La Phu Ca 羅敷歌. Bài này có 44 chữ, bằng vận. Cách luật:

X B X T B B T cú
X T B B vận
X T B B vận
X T B B X T B vận

X B X T B B T cú
X T B B vận
X T B B vận
X T B B X T B vận

B: bình thanh; T: trắc thanh; X: bất luận; cú: hết câu; vận: vần

2- Tự lân (liên)自憐: tự thương mình, lấy ý từ bài Sở từ 楚辭 “Cửu Biện 九辯” của Tống Ngọc 宋玉 đời Chiến Quốc戰國:

廓落兮羈旅而無友生;Quách lạc hề ky lữ nhi vô hữu sinh;
惆悵兮而私自憐。Trù trướng hề nhi tư tự lân.

Cô độc chừ lữ thứ mà không bạn thân;
Buồn bã chừ mà riêng tự thương.

3- Sở khách 楚客: phiếm chỉ người cư trú ở nơi xa quê hương.

4- Bi thu 悲秋: thu buồn, mùa thu buồn bã, cảnh thu buồn bã. Lấy ý từ một câu trong bài Sở Từ “Cửu Biện” của Tống Ngọc đời Chiến Quốc:

悲哉秋之為氣也!Bi tai thu chi vi khí dã!
蕭瑟兮草木搖落而變衰。Tiêu sắt hề thảo mộc dao lạc nhi biến suy.

Sắc vẻ mùa thu buồn bã,
Thê lương chừ thảo mộc tàn tạ mà biến suy.

5- Tứ 思: tâm tình, tình cảm trong lòng như “Tình tứ 情思”, “Sầu tứ 愁思”. Tứ cũng có nghĩa là những ý niệm, suy nghĩ của mình về vấn đề gì đó như “Văn tứ 文思”, “Tâm tứ 心思”. Thu tứ 秋思: tình cảm trước cảnh thê lương tịch mịch của mùa thu.
6- Ty đồng 絲桐: cổ nhân lấy gỗ ngô đồng làm đàn, lấy dây tơ làm dây đàn, vì vậy chữ “tơ đồng” chỉ cây đàn. Tơ đồng cũng được dùng để chỉ nhạc khúc. Nan tả ty đồng 難寫絲桐: vì buồn thương mà không đàn thành khúc điệu, hoặc là vì buồn thương mà không viết được khúc nhạc nào.

7- Thư hồng 書鴻: chim hồng nhạn đem thư, chỉ thơ tín.
8- Mục đoạn thư hồng目斷書鴻: chim hồng nhạn đem thư không có trong tầm mắt.
9- Bình đạm 平淡: bình thường vô vị.
10- Lạc chiếu 落照: ánh nắng lúc mặt trời sắp lặn, tịch dương.
11- Thủy điệu 水調 = thủy điệu ca đầu 水調歌頭, một khúc hát có âm điệu buồn thảm. Tác giả mượn ý này trong bài “Dương Châu thi 揚州詩” của Đỗ Mục 杜牧:

誰家唱水調,Thùy gia xướng thủy điệu, Nhà ai hát khúc thủy điệu,
明月滿揚州。Minh nguyệt mãn Dương Châu. Trăng sáng khắp Dương Châu.

12- Tây phong西風: gió thu.
13- Yểm họa 罨畫: bức họa có nhiều mầu mè. Yểm họa kiều 罨畫橋: cây cầu đẹp như tranh vẽ. Trong bài từ “Quy quốc dao 謠” của Vi Trang 韋莊 có câu:

罨畫橋邊春水,Yểm họa kiều biên xuân thủy,
幾年花下醉。 Kỷ niên hoa hạ túy.

Nước mùa xuân bên cây cầu đẹp như tranh vẽ,
Bao năm say sưa trong khóm hoa (hoặc là dưới giàn hoa)
Trong bài này chữ “Yểm họa kiều” ám chỉ nơi ca kỹ hành nghề.

14- Thập nhị ngọc lâu 十二玉樓: mười hai căn nhà lầu bằng ngọc, lấy chữ từ “Tây Vương Mẫu truyện 西王母傳”, chỉ nơi tiên ở. Chữ này cũng chỉ nơi phụ nữ ở. Trong bài này chữ “Thập nhị ngọc lâu” ám chỉ nơi ca lâu vũ quán.

Dịch Nghĩa:

La Phu Ca Kỳ 4

Người lữ khách xa nhà tự thương mình trong mầu thu buồn bã,
Khó gẩy nên một khúc nhạc (hoặc khó viết ra được một bản nhạc).
Mắt đăm đăm trông ngóng phong thư đến,
Núi sông đạm nhạt bình thường trong ánh nắng tịch dương.

Từ nhà ai vọng đến câu hát thủy điệu nghe ai oán,
Lá vàng bay trong gió thu.
Đi đến phía đông của cây cầu đẹp như tranh vẽ,
Mười hai tầng ngọc lâu (từng phồn hoa) thì nay vắng tanh.


Phỏng Dịch:

1 Thái Tang Tử - Thu Tứ

Tự thương lữ khách buồn thu tứ,
Khó dạo tơ đồng.
Thơ tín trông mong.
Bình đạm giang sơn nắng quái hồng.

Nhà ai điệu hát nghe ai oán,
Lá úa thu phong.
Bức họa cầu đông.
Lầu ngọc mười hai vẫn vắng không.

2 Thu Tứ

Tự thương lữ khách buồn thu tứ,
Khó dạo tơ đồng khúc chạnh lòng.
Trông mong thơ tín sao chưa thấy,
Bình đạm giang sơn nắng quái hồng.

Nhà ai điệu hát buồn se sắt,
Gió thổi lá vàng thu lạnh lùng.
Cầu đông bức họa phơi mầu sắc,
Lầu ngọc mười hai vẫn vắng không.

HHD 
01-2024
***
Thái Tang Tử 
1- La Phu Ca Kỳ 4

Thương mình lữ khách thu buồn bã
Khó gẩy tơ đồng
Dõi mắt thư trông
Trong nắng tà nhòa nhạt núi sông

Nhà ai câu hát nghe ai oán
Vàng lá thu phong
Tranh vẽ cầu đông
Mười hai lầu ngọc nay trống không

2- Ý thu

Thương mình lữ khách thu buồn bã
Khó gẩy đàn ngô tỏ nỗi lòng
Dõi mắt cuối trời thơ ngóng trông
Nắng tà, non sông thêm nhòa nhạt

Nhà ai vọng đến buồn câu hát
Vàng lá bay nhiều bởi thu phong
Đến cầu tranh vẽ chếch mé đông
Mười hai lầu ngọc giờ hoang vắng!

Lộc Bắc
Avr24
***
Lạnh Lùng Thu!

Thu buồn bã ngẫm thương ta
Thảm sầu khó viết tình ca tỏ lòng
Mỏi mòn tin nhạn ngóng trông
Tà dương tắt bóng núi sông nhạt nhòa

Từ nhà ai lời ca than thở?
Lá vàng rơi trăn trở gió thu
Cầu đông bức họa sắc nhu
Mười hai lầu ngọc hoang vu lạnh lùng!

Kim Oanh
4.2024

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2024

Thù Trả Chưa Xong Đợi Kiếp Nào?


Đất lệch, trời nghiêng - thật đấy sao?
Cuộc cờ như một thoáng chiêm bao
Từ khi tổ quốc tàn binh lửa
Là lúc chinh nhân cởi chiến bào
Đau xót quê hương còn tủi nhục
Ngậm ngùi thân thế quá hư hao
Gươm cùn, súng gãy, đầu thêm bạc
Thù trả chưa xong, đợi kiếp nào ? 

Nguyễn Kinh Bắc
 

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2024

Thế Rồi...

(Ảnh: Bạn gửi)

Một thuở hồn nhiên tuổi mơ hoa
Lay trong hương gió mộng hiền hòa
Ấp ủ lời yêu thơm nắng mới
Hạnh phúc nồng nàn mãi không xa

Thế rồi hai buổi nước lớn ròng
Có hay âm ỉ trận cuồng phong
Biết chăng gió lộng hoa tan tác
Lặng lẽ trôi về chốn hư không.

Kim Oanh
4.2024

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2024

Tháng Tư Lại Đến

 
 
Đáng lẽ
tháng Tư đầu mùa xuân
nắng trong veo và đất hiền lành,
nở tràn những đóa hoa muôn sắc
sắc hương nào trông cũng thật xinh.

Đáng lẽ
tháng Tư mang bình yên
hồi chuông kiết hạ xóa ưu phiền,
con sâu, cái kiến, mầm vừa nhú
cả chúng sinh sống thật hồn nhiên.

Như vậy
tháng Tư phải dễ thương
cớ sao lòng bỗng thấy rất buồn,
khi tờ lịch rụng phơi ngày cuối
một cuối cùng không thể nguôi quên.

Ngày ấy
tháng Tư rất đau thương
vắt người ra toàn những giọt buồn,
nhìn quanh chỉ thấy trời mù mịt
bóng hung thần phủ suốt quê hương.

Từ đấy
tháng Tư, anh và em
bạn bè xa, đời sống gần bên,
tất cả chôn vùi trong man rợ
bom đạn ngừng người vẫn cuồng điên.

Tháng Tư
ôi những Tháng Tư Đen
không gian biền biệt có nguôi quên?
dù muốn trong lòng thôi ám ảnh
từ quê xa vọng mãi tiếng hờn.

Sông Hương

Thứ Năm, 18 tháng 4, 2024

Ký Viễn 寄遠 - Đỗ Mục (Văn Đường)

 

Tâm Tư Của Bát Sách và Tiểu Đỗ.

Năm 1975, ngày 30 tháng 04, lúc chiều tối, Bát Sách theo tầu hải quân, xuôi dòng Tiền Giang, ra biển. Khi tầu sắp chìm, mọi người được tầu buôn Song Long (Twin Dragon) cứu, chở tới Vọng Các, rồi về Phú San (Busan), Đại Hàn ngày 21/05. BS ở đây 2 tháng, tới Montréal ngày 22/07/1975.

Lúc đó, Bát Sách còn trẻ, độc thân, vui tính, làm đủ thứ nghề để kiếm sống, học bài thi bằng tương đương, và quen một đồng nghiệp đàn anh lớn tuổi là bác sĩ Nguyễn Khắc Định, cùng lớp với anh Nguyễn Tấn Hồng, cựu Tổng Trưởng Thanh Niên hồi ông Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ Tướng. Theo truyền thống y khoa, tôi gọi các đồng nghiệp lớn tuổi bằng anh, xưng em.

Tôi có đến chơi nhà bác sĩ Định nhiều lần, và gặp con gái của ông là Ng N.H, du học ở Mỹ, tiểu bang Oregon, qua thăm cha mẹ. Tôi đã bị mê hoặc bởi chiếc răng khểnh và nụ cười rất tươi đẹp của nàng.

Năm 1976, dù đã đỗ bằng tương đương, nhưng tới tháng 7 năm 1977 tôi mới có chỗ để đi nội trú. Mùa hè năm đó, nàng lại qua chơi, chúng tôi gặp nhau đôi lần, nói chuyện vu vơ, nhưng khi nàng về Mỹ thì tôi bắt đầu thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai kiểu Quang Dũng.

Mùa đông năm 1977, ở Montréal, tuyết rơi nhiều… Một hôm, sau phiên trực, tôi về nhà mệt mỏi rã rời, bỏ ăn, lăn ra ngủ. Đến đêm thức giấc, chợt nhớ tới nàng, lại biết ở Oregon trời không lạnh, nhưng mưa liên miên, bèn làm 4 câu thơ:

Người ở phương trời, mưa mãi rơi,
Nơi đây tuyết trắng phủ ngập trời,
Nửa đêm thức giấc sầu cô quạnh,
Em có khi nào nghĩ đến tôi?

Mùa xuân năm 1978, người đẹp qua chơi, tôi cầu hôn và nàng đồng ý. Chúng tôi làm đám cưới ngày 17/06/1978, 2 tuần trước khi tôi xong nội trú.

Đây là chuyện riêng, đưa lên diễn đàn, BS thấy hơi kỳ, nhưng vì một hôm, vô tình đọc bài KÝ VIỄN của Tiểu Đỗ, tức Đỗ Mục 杜牧 (803-853), sao nó giống y chang tâm tư của mình.

Đỗ lúc đó, chắc ở miền bắc, đêm nằm nghe tuyết rơi, nhớ tới người yêu ở miền nam, mưa tơi bời…

寄遠 杜牧             Ký Viễn (Đỗ Mục)

前山極遠碧雲合, Tiền sơn cực viễn bích vân hợp,
清夜一聲白雪微. Thanh dạ nhất thanh bạch tuyết vi,
欲寄相思千里月, Dục ký tương tư thiên lý nguyệt,
溪邊殘照雨霏霏. Khê biên tàn chiếu vũ phi phi.

Bài này không nhiều chữ khó.

# Câu 2 có 2 chữ thanh, chữ thứ nhất 清 là trong trẻo, chữ thứ 2 聲 là tiếng động.
# Vi 微: là nhỏ, nhẹ.
# Tàn chiếu 殘照:là lúc mặt trời sắp lặn, lúc chiều tà, hoàng hôn.
# Phi Phi 霏霏: viết với bộ vũ, là lã chã, tầm tã, lất phất, tả mưa rơi.

Phỏng dịch:

Gửi Nơi Xa

Bềnh bồng mây biếc trước non côi,
Đêm thanh nghe tuyết trắng nhẹ rơi,
Muốn gửi tương tư trăng vạn dặm,
Mưa khe chiều xuống, rớt tơi bời

Bát Sách.
(ngày 12/02/2024)
***
Những Bài Dịch Khác:

Gửi Người Xa

Bềnh bồng xa tắp mây xanh
Phất phơ tuyết trắng đêm thanh riêng mình
Nhờ trăng ngàn dặm gửi tình
Đến người bên suối muôn nghìn nhớ nhung.

Kim Oanh


Gởi Chốn Xa

Trước núi xa xăm mây biếc phủ
Đêm khuya nghe tiếng tuyết rơi hờ
Tương tư muốn gởi trăng ngàn dặm
Bên suối chiều tà mưa phất phơ?

Mây mù bao phủ núi xa
Đêm khuya nghe tiếng tuyết va kính mờ
Nhớ thương, trăng gởi người mơ
Nụ cười răng khểnh, tóc tơ suối nguồn!

Lộc Bắc

***
Gửi Nơi Xa

Thật xa trước núi tụ xanh mây,
Lất phất đêm buồn tuyết trắng bay.
Muốn gửi tương tư trăng vạn dậm,
Về bên bờ suối gió mưa đầy.

Mỹ Ngọc 
Feb. 23/2024.

***
Gởi Người Xa

Mây xanh lãng đãng quyện quanh non
Đêm xuống tuyết rơi êm ái buông
Muốn gởi qua trăng tình đắm đuối
Ánh dương bên suối hạt mưa buồn

Thanh Vân
***
Gửi Người Xa

Mây chắn xanh rờn, dáng núi xa
Đêm thanh tuyết trắng bay la đà
Trăng ơi! Cho gửi niềm tâm sự
Bên suối mơ. Chiều. Mưa lướt qua

Kiều Mộng Hà
Austin.4.6.24
***
Dịch nghĩa

Gửi Người Xa

Mây xanh tụ ở dẫy núi rất xa phía trước,
Trong đêm thanh nghe tuyết trắng rơi nhè nhẹ.
Muốn nhờ vầng trăng cao vạn dặm kia, gởi niềm riêng tới…
... Người ở bên bờ suốt có trăng mờ soi và có mưa rơi lất phất kia.

Dịch thơ

Gửi Người Xa

Đỉnh non xa tắp mây xanh tụ,
Đêm tĩnh chợt nghe tuyết trắng phơi.
Muốn gởi niềm riêng trăng vạn dặm,
Về bên bờ suối có mưa rơi.

Lời bàn:

Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị, du dương và lãng mạn; ngôn từ gợi những ý súc tích của Đỗ Mục.
Câu 1:
Trên đỉnh núi xa tắp có mây xanh tụ (ám chỉ nơi xa xôi và ấm áp của người yêu),
Câu 2:
Trong một đêm trăng thanh có tuyết trắng lất phất (ám chỉ nơi lạnh lẽo của mình).
Câu 3:
Muốn nhờ vừng trăng ở trên cao gởi niềm tương tư của mình tới…,
Câu 4:
… Bên bờ suối, nơi (đang) có mưa rơi, (cụm từ bạch tuyết vi tương phản với cụm từ vũ phi phi ở câu 2).

Con Cò
***
Nguyên tác: Phiên âm:

寄遠-杜牧 Ký Viễn - Đỗ Mục

前山極遠碧雲合 Tiền sơn cực viễn bích vân hợp
清夜一聲白雪微 Thanh dạ nhất thanh bạch tuyết vi
欲寄相思千里月 Dục ký tương tư thiên lý nguyệt
溪邊殘照雨霏霏 Khê biên tàn chiếu vũ phi phi
Hán bản của bài thơ được đăng trong các sách đời Thục, Tống, Minh, Thanh:

Tài Điều Tập - Thục - Vi Hộc 才調集-蜀-韋縠
Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句-宋-洪邁
Thạch Thương Lịch Đại Thi Tuyển - Minh - Tào Học Thuyên 石倉歷代詩選-明-曹學佺
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐 詩-清-聖祖玄燁

Sách của Huyền Diệp có cho 2 dị bản ở câu 1 và 4.

Ký Viễn là một đề tài rất thơ mộng nên nhiều thi nhân đời Đường, trong đó có Lục Quy Mông 寄遠, Lý Thương Ẩn 寄遠, Bạch Cư Dị 寄遠… đã tham gia làm thơ dưới mục này. Có 46 bài thơ có hai chữ Ký Viễn trong tựa, có 32 bài tựa chỉ có hai chữ Ký Viễn.

Ngoài bài Ký Viễn này (không có tựa như thế trong sách chữ Hoa nào), Lý Bạch có làm một bài Ký Viễn 11 Thủ 寄遠十一首.
Ngoài bài Thu Tễ Ký Viễn, Đỗ Mục còn có 3 bài Ký Viễn: 寄遠 1, 寄遠 2, 寄遠3.

Chú thích:

Bích vân: mây xanh, mây trên bầu trời xanh biếc
Thanh dạ: một đêm yên tĩnh
Tàn: phần còn thừa lại của cái gì đã dùng rồi
Tàn chiếu: lúc mặt trời đã lặn
Phi phi: lả tả, tiếng mưa rơi, nhiều dày dặc…

Dịch nghĩa:

Gởi Người Phương Xa

Xa xa phía trước núi những đám mây xanh biếc hòa quyện với nhau,
Trong đêm yên tĩnh có tiếng vi diệu tuyết trắng rơi.
Muốn gửi mối tình say đắm đến một nơi cách xa ngàn dặm qua ánh trăng,
Bên dòng suối dưới những tia sáng cuối cùng của mặt trời mưa lả tả rơi.

Bình luận:

Bài thất ngôn tứ tuyệt là một tuyệt tác về hình thức, gợi cảm và sâu sắc về ý, trữ tình và lãng mạn. Khi dịch nghĩa cũng như dịch thơ, cần lưu ý về thời lúc và thứ tự hợp lý của các sự việc đã xảy ra. Chiều mây, tối tuyết, khuya trăng, và gần sáng mưa. Chữ tàn chiếu dịch đúng nghĩa là lúc mặt trời sắp lặn, lúc chiều tà, hoàng hôn… e không ổn với thứ tự thời gian trong các câu trước. Quên đi thời điểm trong câu 4 hoặc phỏng dịch hết đêm, gần sáng, bình minh, tia nắng đầu tiên…

To Someone Far-Away by Dù Mù

Blue clouds drifted in the distance in front the mountains,
In the quiet night, only the marvellous sound of falling white snow.
I wanted to send love, through the moon, to a distant place thousands of miles away,
But on the bank of the stream under the last sun rays, it rained heavily.

Phỏng dịch thơ: Gởi Người Phương Xa

Thể thất ngôn: 

Trước núi mây xanh phủ góc trời,
Trong đêm thanh vắng tuyết êm rơi.
Gởi người vạn dặm bao thương nhớ,
Bên suối dưới trăng mưa khắp nơi.

Thể lục bát: 

Mây xanh phủ núi mờ xa,
Trong đêm yên tĩnh trắng ngà tuyết rơi.
Nhớ thương vạn dặm ngươi ơi!
Dưới trăng bên suối mưa nơi giang đầu.

Phí Minh Tâm
*** 
Tương Tư

Mây xanh bao phủ trên đầu núi
Hoàng hôn chìm xuống ở phương xa
Đêm buồn bóng Nguyệt lu mờ chiếu
Bên trơi ai có hiểu lòng ta

Văn Ngọc

21-4-2024

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2024

Cảm Tác: Gối Mộng Mơ Trăng!

 

Gối Mộng Mơ Trăng!


Đêm đã dần tàn sao trăng còn thức
Rón rén ghé gần khung cửa nhỏ to
“Gối mộng ơi, để thân lạnh co ro
Coi chừng cảm trăng lo không yên giấc”

Gối mộng chợt giật mình.. Ồ là thật!
“Khẽ khàng cười ...Bỡi ngủ gật quên thôi
Cám ơn trăng đêm đã khuya lắm rồi
Ngủ ngon nhé kẽo hao tâm tội lắm!”

Chênh lệnh thời gian giao hòa chầm chậm
Tỉnh giấc nồng còn âm ỉ trong tim
Một ngọt ngào một nhơ nhớ lắng im
Trời hừng sáng đắm chìm lòng thổn thức

Trăng ơi! Có phải chăng là sự thật?!
Cho suốt đời Trăng Mộng mãi trong mơ
Được nghe trăng thì thầm tiếng hẹn chờ
Để gối mộng khép hờ khung cửa sổ!

Kim Oanh
5.4.2024
***
Bài Cảm Tác:

Gối Mộng Mơ Trăng

Trăng tò mò nhìn qua khung cửa sổ
Thấy em buồn tiếc nuối một giấc mơ
Thời con gái tâm hồn đang thổn thức
Nhớ và yêu tình thao thức đợi chờ.

Đêm đã thật khuya trăng còn sáng tỏ
Rón rén vén màn cửa sổ hẹn hò
Đêm kỳ diệu em bước vào huyền thoại
Để ước mơ về không phải đắn đo.

Viết Tặng VTS Kim Oanh
Tế Luân
04-09-24

 

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2024

Chôn Vùi


Người đến cho em một nụ cười
Đan thành giấc mộng tuổi đôi mươi
Khép bờ mi tình xanh rười rượi
Một nửa cho em, nửa cho người

Người đi để lại thoáng ngậm ngùi
Khắc sợi buồn xoá nát niềm vui
Xoa dấu muộn phiền tình ngắn ngủi!
Gom hương yêu lấp cát chôn vùi.

Kim Oanh

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2024

Đành Sao!

Đành Sao!

(Ảnh: Bạn gửi)

Thời gian vun vút thoi đưa
Quay lưng bỏ mặc nắng mưa cuộc đời
Nén lòng nhặt cánh sầu rơi
Cất vào trang vở một thời cho nhau
Hè ơi áo trắng phai màu
Nhưng ngày tháng cũ bạc đầu khắc sâu
Phượng hồng ai chở đi đâu
Sao đang tâm để nỗi đau riêng mình....

Kim Oanh
6.3.2024 

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2024

Thả Hồn Vào Đá, Thì Thầm Cùng Đá - Dropping Soul Into Stone,Whispering With Stone (Trần Việt Long & Kim Oanh)

 

1/ Thả Hồn Vào Đá

Ai đã thả hồn vào đá
Mà nghe thương nhớ mênh mông
Dáng xưa sân trường thuở nọ
Thướt tha ghi mãi trong lòng


Trần Việt Long
***
Bản Dịch:

Dropping Soul Into Stone

Who put the soul into stone?
My memory remains strong,
Your image in the schoolyard,
In my heart, you're known!

Trần Việt Long

--ơ0o--

2/ Thì Thầm Cùng Đá

Hồn ai chạm vào lòng của đá
Đêm trở mình biển cả gọi tên
Gió thì thầm lời hát dịu êm
Hòa nhịp sóng tràn thêm nhung nhớ
Như tình yêu đầu đời vừa nở
Khắc vào tâm muôn thuở chẳng phai!

Kim Oanh
***
Bài Dịch:

Whose soul touches the heart of stone,
At night, the ocean calls,
The wind whispers a gentle song,
Joining the waves, overflowing with missing all,
Like first love just blooming,
Engraved in my heart forever and never gone!

Trần Việt Long


Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Ký Lý Đảm, Nguyên Tích 寄李儋元錫 -Vi Ứng Vật (Trung Đường)

  
(Nhóm LT21 Chúc mừng Sinh Nhật Thượng Thọ 90 của Ông Cò)

Vi Ứng Vật 韋應物 (737-792) tự Nghĩa Bác 義博, người Đỗ Lăng, Kinh Triệu, lúc đầu làm Tam vệ lang cho Đường Huyền Tông (712-755), về sau chịu khó đọc sách, đến đời Đức Tông (780-804) làm quan thứ sử Tô Châu có nhiều thiện chính. Ông tính cao khiết, thích đốt hương ngồi một mình. Ông cùng Lưu Trường Khanh được người đương thời gọi là 2 thi nhân đại tự nhiên. Thi tập của ông gồm 10 quyển.

Nguyên bản        Dịch âm

寄李儋元錫        Ký Lý Đảm, Nguyên Tích

去年花裡逢君別 Khứ niên hoa lý phùng quân biệt,
今日花開又一年 Kim nhật hoa khai hựu nhất niên.
世事茫茫難自料 Thế sự mang mang nan tự liệu,
春愁黯黯獨成眠 Xuân sầu ảm ảm độc thành miên.
身多疾病思田里 Thân đa tật bệnh tư điền lý,
邑有流亡愧俸錢 Ấp hữu lưu vong quý bổng tiền.
聞道欲來相問訊 Văn đạo dục lai tương vấn tấn,
西樓望月幾回圓 Tây lâu vọng nguyệt kỷ hồi viên.

Chú giải

茫 茫 mang mang: mênh mang
愧 quý: hổ thẹn
問訊 vấn tấn: người trên hỏi người dưới, hỏi thăm với ý mách bảo điều gì.

Dịch nghĩa

Gửi Lý Đảm và Nguyên Tích

Năm ngoái khi hoa nở, chính là lúc cùng các ông chia tay,
Năm nay hoa lại nở, đã một năm rồi!
Việc đời man mác, khó tự liệu tính trước được,
Trong mối sầu xuân ảm đạm, hãy cố tạo nên giấc ngủ.
Thân nhiều bệnh tật thì nên nghĩ tới vườn ruộng,
Trong ấp có kẻ lưu vong, mình hổ thẹn còn lãnh bổng lộc.
Nghe nói các ông muốn đến đây vấn an tôi,
Trên lầu tây, tôi trông ngóng trăng, đã nhiều lần rồi!

Dịch thơ

Gửi Lý Đảm, Nguyên Tích

Ngắm hoa năm ngoái ta từ biệt,
Hoa nở hôm nay đúng một niên.
Thế sự mênh mang khôn tự liệu,
Xuân sầu ảm đạm ngủ chưa yên.
Thân nhiều tật bệnh ưa vườn ruộng,
Ấp lắm lưu vong thẹn bổng tiền.
Nghe nói quí ông sang dạy bảo,
Lầu tây vọng nguyệt đã nhiều đêm.

Con Cò
***
ÔC đưa bài này vào ngày sinh nhật thứ 90 của mình khiến BS càng thêm ngưỡng mộ, vì ngày xưa, thất thập cổ lai hy, mà ÔC tới cửu thập vẫn còn đi chơi lung tung, soạn bài, dịch thơ rất uy tín. Mong ÔC cứ tiếp tục như vậy thêm nhiều năm nữa để đàn em noi theo.

Gửi Lý Đam, Nguyên Tích.

Dưới hoa năm ngoái lúc chia tay,
Hoa nở hôm nay năm đã đầy,
Thế sự mang mang sao liệu được,
Xuân sầu ảm đạm cố ngủ say,
Thân nhiều bệnh tật thương vườn cũ,
Thẹn chốn lưu vong được bổng dầy,
Nghe quý đàn anh cùng tới gặp,
Lầu tây vọng nguyệt đã bao ngày.

Bát Sách.
(ngày 27/03/2024)

***
Bn Tri Âm

Xuân trước chúng ta giả biệt nhau
Năm nay hoa nở nhớ chia tay
Việc đời thay đổi đâu biết trước
Giấc ngũ chập chờn chẳng được say
Bệnh tật thường xuyên vườn ruộng cũ
Gian nan lắm kẻ dạ buồn thay
Bạn hiền sắp đến nhà thăm hỏi
Khách quý trông chờ ngóng gác tây


Văn Ngọc
7-4-2024
***

Gởi Lý Đam, Nguyên Tích

Mình giã biệt dưới hoa năm ngoái
Đến bây giờ nở lại tròn năm
Chuyện đời đâu dễ tính thầm
Nỗi sầu cô độc ôm cầm giấc xuân
Nhớ vườn ruộng, bệnh vào thân
Lưu vong bổng lộc lương tâm thẹn cùng
Nghe tin bạn muốn tương phùng
Bao mùa trăng ngóng cùng chung mái lầu

Kim Oanh
***
Gởi Lý Đam, Nguyên Tích

Năm ngoái ngắm hoa mình giã biệt
Năm nay hoa nở đã tròn năm
Chuyện đời mù mịt khôn trù tính
Ảm đạm sầu xuân độc chiếc nằm
Bệnh tật mang nhiều vườn ruộng nhớ
Lưu vong đầy xóm, thẹn lương tâm
Nghe tin các bạn mong thăm viếng
Vọng nguyệt lầu tây biết mấy tầm!

Viết thêm:

Hoàn cảnh của mình cũng tương tự như giống như họ Vi nhưng có lẽ mình may mắn hơn, còn được các ACE yêu cổ thi, từ bốn phương, góp ý, bàn luận hàng tuần qua internet. Mình chỉ mơ ước có được một lần gặp mặt họ trước khi lìa đời để mời nhau một ly rượu nhạt.
Nhân ngày sinh nhật 29/03 của đàn chủ, thư ký viết tặng Ống Cò một bài thơ.

Tự Bạch (dùm)

Bấm đốt tay hôm nay chín chục.
Thầm nhủ mình lắm phúc ơn trời
Tha hương nương tựa nửa đời
Thẹn nhiều bổng lộc, xót người lưu vong
Thân già lão, chẳng mong sống mãi
Nợ văn chương tứ hải kết thân
Cầu mong gặp mặt một lần
Mời chung rượu nhạt, “đằng vân” giã từ!

Lộc Bắc
29/03/2024
***
Gửi Tặng Lý Đam - Nguyên Tích

Năm trước hoa khai, ta giã biệt
Hôm nay hoa nở đúng tròn năm
Chuyện đời bao quát đâu cần quản
Xuân đến sầu thêm ngủ chẳng an
Bệnh hoạn thân gầy, xây uyển mộng
Trong thôn viễn khách ước xa xăm
Nghe tin bạn quý toan thăm viếng
Mong ngóng lầu tây vọng nguyệt thầm

Kiều Mộng Hà
Austin.3.23.24
***
Gửi Lý Đam Nguyên Tích

1/
Mùa hoa năm ngoái bạn chia tay,
Tròn một năm, nay lại nở đầy.
Việc thế rối bời sao liệu trước,
Xuân buồn giấc ngủ một mình say.
Thân nhiều bệnh tật vườn quê nhớ,
Xóm lắm dân di lộc thẹn thay.
Nghe nói thăm nhau anh sắp tới,
Trăng tròn mấy độ ngóng lầu tây.

2/
Chia tay dưới dàn hoa năm ngoái,
Một năm tròn nay lại nở đầy.
Việc đời định trước khó thay,
Xuân buồn chỉ muốn ngủ say một mình.
Nhớ vườn ruộng thân hình nhiều bệnh,
Dân tha phương tự thẹn bổng cao.
Nghe anh định đến thăm nhau,
Lầu tây chờ đón biết bao trăng tròn.

Mỹ Ngọc 
Mar. 23/2024.
***
Gởi Lý Đam Và Nguyên Tích.

Hoa đào bừng nở năm nao,
Phút giây ly biệt - lệ trào ướt mi.
Tròn niên thấm thoát sầu bi,
Tri âm vắng bóng từ khi bỏ làng.
Đa mang thế sự võ vàng,
Dễ đâu liệu trước ngút ngàn về sau.
Xuân sang, ảm đạm ngập sầu,
Tự mình dỗ giấc - canh thâu lạnh lùng.
Thân mang bệnh hoạn vô chừng,
Điền viên khuây khỏa - mịt mùng ngày qua.
Tha phương cầu thực gần xa,
Khối người trong ấp kêu ca phận đày.
Riêng ta túy lúy cuồng say,
Của tiền bổng lộc - thẹn thay gào trời...
Bạn bè tít tận ngàn khơi,
Nhắn thơ muốn viếng - đôi lời hỏi thăm.
Tây lâu hiu hắt âm thầm,
Bao lần vọng nguyệt - lũi lầm cao niên.

Khánh-Hưng
***
Kính chúc sức khỏe và trường thọ đến Ông Cò nhân dịp sinh nhật 90 tuổi.

Thư Gởi Lý Đam Và Nguyên Tích

Hoa nở năm rồi giã biệt nhau
Khoe màu hoa lại nở năm sau
Đời người ai biết chuyện gì đến
Ảm đạm mùa xuân dỗ giấc sầu
Bệnh tật nghĩ về nơi ruộng cũ
Hưởng nhiều bổng lộc thẹn thùng sâu
Nghe tin bạn đến thăm nhà tớ
Trông ngóng lầu tây đã bấy lâu.

Thanh Vân
***
Phỏng Dịch:

Xuân trước chúng ta giả biệt nhau
Năm nay hoa nở nhớ chia tay
Việc đời thay đổi đâu biết trước
Giấc ngũ chập chờn chẳng được say
Bệnh tật thường xuyên vườn ruộng cũ
Gian nan lắm kẻ dạ buồn thay
Bạn hiền sắp đến nhà thăm hỏi
Khách quý trông chờ ngóng gác tây


Văn Ngọc
7-4-2024
***

***
Nguyên bản: Phiên âm:

寄李儋元錫 Ký Lý Đam Nguyên Tích
韋應物 Vi Ứng Vật

去年花裏逢君別 Khứ niên hoa lý phùng quân biệt
今日花開已一年 Kim nhật hoa khai dĩ nhất niên
世事茫茫難自料 Thế sự mang mang nan tự liệu
春愁黯黯獨成眠 Xuân sầu ảm ảm độc thành miên
身多疾病思田里 Thân đa tật bệnh tư điền lý
邑有流亡愧俸錢 Ấp hữu lưu vong quý bổng tiền
聞道欲來相問訊 Văn đạo dục lai tương vấn tấn
西樓望月幾回圓 Tây lâu vọng nguyệt kỷ hồi viên

Sách của Vi Ứng Vật và sách đời Thanh cho văn bản như bên trên với chữ dĩ 已=quá trong câu 1 và dị bản hốt hốt 忽忽=lơ là thay vì ảm ảm 黯黯=buồn thảm trong câu 4:

Vi Tô Châu Tập - Đường - Vi Ứng Vật 韋蘇州集-唐-韋應物
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全唐詩-清-聖祖玄燁

Các sách đời Tống Nguyên Minh xài chữ hựu又=vừa trong câu 1 và không chép dị bản của bài nguyên thủy:

Ký Toản Uyên Hải - Tống - Phan Tự Mục 記纂淵海-宋-潘自牧
Doanh Khuê Luật Tủy - Nguyên - Phương Hồi 瀛奎律髓-元-方回
Đường Thi Phẩm Vị - Minh - Cao Bính 唐詩品彙-明-高棅
Bài thơ Đường luật tuyệt hảo bảy chữ tám câu này được chọn đăng trong Thiên Gia Thi 寄李儋元锡 cũng như trong Đường Thi Tam Bách Thủ 唐诗三百首 bài 192. Bài thơ luật bằng, vần bằng, đúng niêm vận, tiết tấu, bố cục và đối xứng.

Vi Ứng Vật được Đường Đức Tông bổ nhiệm Thử sử Trừ Châu năm 783. Cuối xuân năm này, ông rời bạn bè và Trường An. Ông làm bài thơ gởi bạn vào mùa xuân năm 784.

Ghi chú:

Lý Đam:( ? -762) bạn thân của thi nhân, từng là người hầu trong cung. Theo Trung Quốc Lịch Đại Nhân Danh Đại Từ Điển 中國歷代人名大辭典, Lý Đam là con trai thứ hai của Đường Túc Tông, bị giết chết năm 762 khi âm mưu cùng Trương hoàng hậu giết hoạn quan Lý Phụ Quốc (李辅国) nhưng thất bại.

Nguyên Tích: ( ? -839?), người Hà Nam, tự Quân Huống, bạn thơ của tác giả khi ông sống ở huyện Trường An. Theo Trung Quốc Lịch Đại Nhân Danh Đại Từ Điển, ông làm quan giữ chức Thứ sử Tô Châu thời Hiến Tông Nguyên Hòa, đi đến đâu đều đạt được thành tựu chính trị; 10 năm sau đến Phúc Kiến làm Quan Sát sử; 14 năm sau đến trấn Tuyên Châu làm Thư ký và Giám sát; sau đó bị giáng chức đi Bích Châu vì tội tham ô những lạm. Toàn Đường Văn 全唐文·卷六百九十三 , xác nhận Nguyên Tích có làm việc ở Tô Châu vào năm Nguyên Hóa thứ 9, và sau cùng làm Thứ sử Cù Châu.


Nhiều nơi (5000yan.com, chinesewords.org/poetry…) cho Lý Đam và Nguyên Tích là một người: Lý Đam: tự Nguyên Tích, Vũ Uy (kim chúc Cam Túc) nhân, tằng nhâm điện trung thị Ngự sử, thị tác giả đích bằng hữu 李儋: 字元錫, 武威 (今屬甘肅) 人, 曾任殿中侍御史, 是作者的朋友 Lý Đam: tự Nguyên Tích, người Vũ Uy (Cam Túc ngày nay), từng làm Ngự sử trong cung, và là bạn thân của tác giả. Điều này có vẻ hợp lý theo thời điểm của bài thơ sáng tác năm 784 khi Vi Ứng Vật làm Thứ sử Trừ Châu, 22 năm sau khi Lý Đam, Việt vương Lý Hệ bị giết chết.

Tuy nhiên, ngoài bài Ký Lý Đam, Nguyên Tích 寄李儋,元錫, Vi Ứng Vật còn có làm rất nhiều bài thơ tặng riêng cho Lý Đan như: Tặng Lý Đam Thị Ngự 贈李儋侍禦, Tống Lý Đam 送李儋, Ký Biệt Lý Đam 寄別李儋, Thù Lý Đam 酬李儋, Tặng Lý Đam 贈李儋… hoặc tặng riêng cho Nguyên Tích như: Quận Trung Đối Vũ, Tặng Nguyên Tích Kiêm Giản Dương Lăng 郡中對雨,贈元錫兼簡楊淩, Tống Nguyên Tích, Dương Lăng 送元錫,楊淩, Đồng Nguyên Tích Đề Lang Gia Tự 同元錫題琅琊寺.

Dấu phẩy trong các tựa bài thơ là sáng kiến mới, được ctext.org thêm vào giúp người ngày nay dễ hiểu, không có trong văn bản (mộc bản) nguyên thủy. Ký Lý Đam, Nguyên Tích 寄李儋,元錫 trong mộc bản là Ký Lý Đam Nguyên Tích 寄李儋元錫. Tống Nguyên Tích, Dương Lăng 送元錫,楊淩 trong mộc bản là Tống Nguyên Tích Dương Lăng 送元錫楊淩.

Trong cổ thi Trung Hoa, mình phải hiểu thêm bối cảnh, ẩn dụ, điển tích… mới mong hiểu được ý tác giả, một thách thức đôi khi quá lớn với mình. Mình chỉ có thể chắc chắn là Lý Đam trong bài thơ là một nhân vật khác không phải Việt Vương Lý Hệ và Lý Đam và Nguyên Tích là hai nhân vật khác nhau.

Xuân sầu: nỗi buồn do sự xuất hiện của mùa xuân gây ra
Tư điền lý: nhớ ngôi làng bình dị, ý là muốn sống ẩn dật.

Ấp hữu lưu vong: đề cập đến những người phải sống lưu vong trong khu vực, những người nghèo vô gia cư (đang thời loạn lạc)
Quý bổng tiền: xấu hổ vì nhận lương bổng (từ người dân đóng thuế) mà không làm gì được giúp cho người nghèo đói
Vấn tấn: thăm viếng hỏi han

Dịch nghĩa:

Gởi Lý Đam và Nguyên Tích

Năm ngoái khi bông hoa nở là lúc chúng ta chia tay và nói lời tạm biệt,
Năm nay hoa lại nở, chúng ta đã xa nhau quá một năm rồi.
Việc đời mênh mang, làm sao có thể đoán trước được số phận của mình,
Mùa xuân ảm đạm, khiến cảm thấy cô độc mất ngủ.
Thân nhiều bệnh tật nên nghĩ muốn trở về đồng ruộng quê nhà,
Nhìn những người nghèo đói trong ấp, mà thấy hổ thẹn lãnh bổng lộc.
Nghe nói bạn muốn đến đây gặp thăm,
Tôi đã lên lầu tây bao lần trông ngắm trăng mong chờ.

Dịch thơ:

Gởi Bạn

Hoa nở năm rồi khi tạm biệt,
Giờ hoa lại nở chưa đoàn viên.
Khó khăn cuộc sống không toan trước,
Buồn bực đêm xuân khó ngủ yên.
Già bịnh ước mơ về sống ruộng.
Đói nghèo đầy thẹn nhận lương tiền,
Vui nghe bạn nói sẽ thăm viếng,
Lên gác chờ trăng nhiều tối liền.

Nhớ Bạn

Năm rồi đào nở chia tay,
Giờ đào lại nở mới hay năm tròn.
Việc đời thật khó liệu toan,
Mùa xuân ảm đạm cô đơn đêm trường.
Già bịnh càng nhớ quê hương,
Thẹn nhận bổng lộc, nhiễu nhương bao người.
Vui nghe bạn muốn đến chơi,
Đêm đêm nhắn gởi vài lời cùng trăng.

To Li Dan, My Friend Yuanxi by Wei Yingwu
Translation by Betty Tseng

Last year we gathered and parted when flowers were still in bloom,
Now comes this year's blossom, a year has since passed by.
Unpredictable is the indefinite and unfathomable world around us,
This spring I sleep in solitude with a glum and gloomy mind.
Stricken with illnesses I long to hometown retire to,
I feel undeserving of my salary as on the streets the destitute strive to survive.
I hear mention of your intention to visit here,
Here I await you in the west chamber wondering how many moons before you arrive.

To My Friends Li Dan And Yuanxi by Wei Yingwu
Translation by Witter Bynner

We met last among flowers, among flowers we parted,
And here, a year later, there are flowers again;
But, with ways of the world too strange to foretell,
Spring only brings me grief and fatigue.
I am sick, and I think of my home in the country-
Ashamed to take pay while so many are idle.
In my western tower, because of your promise,
I have watched the full moons come and go.

Phí Minh Tâm