Thứ Năm, 19 tháng 6, 2025

Khuê Oán-Vương Xương Linh - 閨怨-王昌齡


(Bát Sách biên soạn)

Lời phi lộ

Hồi ở Việt Nam, Bát Sách có 7 năm lính. Ngày đó Bát Sách còn độc thân, sống rất tự do, thoải mái, chỗ nào cũng là nhà, ở đâu cũng vui. Tuy phóng túng, ham vui và hời hợt, Bát Sách lại rất yếu lòng, nên có những phút nghẹn ngào xúc động mà suốt đời không quên được: đó là lúc thấy những người vợ tay xách, nách mang, lếch thếch từ quê lên thăm chồng mà không gặp, vì chồng đi hành quân; đó là lúc thấy những người vợ nuôi chồng bị thương, ban đêm nằm co quắp dưới chân giường, thao thức; đó là lúc thấy những người vợ trẻ, mặt mày hốc hác, đầu quấn khăn tang, lên nhận xác chồng, nghẹn ngào khóc không ra tiếng ... Nỗi khổ của người lính VNCH sách vở đã nói nhiều, ai cũng biết. Nhân Ngày Quân Lực năm nay, Bát Sách muốn nói đến nỗi khổ của vợ lính, nỗi lòng chinh phụ. Bát Sách vốn mê thơ Đường, nên trích hầu quí vị mấy bài, mong rằng không đến nỗi làm quí vị thất vọng.

Mở đầu là bài của Vương Xương Linh, có lẽ ai cũng biết:

Nguyên tác             Dịch âm

閨怨                         Khuê Oán

閨中少婦不知愁     Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓。 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu,
忽見陌頭楊柳色, Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
悔教夫婿覓封侯     Hối giao phu tế mịch phong hầu.

王昌齡                    Vương Xương Linh

(Thiếu phụ trong phòng khuê không biết sầu; ngày xuân trang điểm bước lên lầu thúy, chợt thấy màu dương liễu xanh tươi ở đầu đường, hối hận rằng đã khuyên chồng đi tìm ấn phong hầu)

Dịch thơ

Phòng khuê nàng chẳng biết sầu,
Ngày xuân trang điểm lên lầu lang thang,
Liễu tươi chợt thấy đầu đàng,
Hối sao lỡ dại khuyên chàng cầu danh.

Bát Sách

Bài này âm điệu nhẹ nhàng, lời thơ trang nhã, quí phái, nỗi buồn của thiếu phụ chỉ thoang thoảng như làn gió xuân lùa qua mái tóc. Bát Sách có cảm tưởng rằng nàng chỉ thấy cô đơn chứ chưa nhớ chồng tha thiết. Trong Chinh Phụ Ngâm, Đặng Trần Côn có mượn 2 câu cuối của bài này mà bà Đoàn thị Điểm dịch như sau:

Chợt ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.

Ngày xưa, phương tiện giao thông còn thô sơ, đi bộ, ngựa, hoặc thuyền, làm gì có xe bus, xe lửa, phi cơ như bây giờ. Chồng đi lính thú ở xa, việc đi thăm là thiên nan vạn nan; lại không có điện thoại viễn liên để lâu lâu tỉ tê tâm sự, do đó các nàng chinh phụ chỉ còn cách gặp chàng trong giấc mộng.

Bát Sách dẫn 2 bài thơ Đường nói về giấc mộng của những người vợ trẻ:

伊州歌-春怨  Y Châu ca - Xuân Oán

打起黃鶯兒, Đả khởi hoàng oanh nhi,
莫教枝上啼     Mạc giao chi thượng đề,
啼時驚妾夢, Đề thời kinh thiếp mộng,
不得到遼西     Bất đắc đáo Liêu Tê (Tây)

金昌緒            Kim Xương Tự

(Hãy đuổi con chim oanh vàng, đừng để nó hót trên cành cây. Khi hót nó làm kinh động giấc mơ của thiếp, làm thiếp không đến được Liêu Tây để gặp chàng)

Trong ấn bản ở Việt Nam, Thầy Trần trọng San mở đầu bài dịch bằng câu: “Đuổi giùm hộ thiếp con oanh”, Bát Sách rất thích. Trong ấn bản mới ở Canada, Thầy đổi lại như sau:

Đuổi giùm đi cái oanh vàng,
Đừng cho nó hót rộn ràng trên cây,
Làm tan vỡ giấc mơ này,
Thiếp không đến được Liêu Tây với chàng.

Bài này lời đẹp, tình ý nhớ nhung thật nhẹ nhàng, ngây thơ, Bát Sách đoán thiếu phụ còn rất trẻ, và con nhà giàu vì ngôn ngữ cử chỉ của nàng vừa nũng nịu, vừa quí phái. Giấc mơ của nàng cũng nhẹ nhàng như lời thơ, không có tha thiết, đam mê như nàng chinh phụ của Trương Trọng Tố trong bài Xuân khuê tứ:

春閨思             Xuân Khuê Tứ

裊裊城邊柳, Niểu niểu thành biên liễu,
青青陌上桑。 Thanh thanh mạch thượng tang,
提籠忘採葉。 Đề lung vong thái diệp,
昨夜夢漁陽。 Tạc dạ mộng Ngư dương.

張仲素            Trương Trọng Tố

(Người chồng đồn trú tại Ngư Dương. Người vợ là một thôn nữ, ngày ngày ra đồng hái dâu nuôi tằm. Hôm nay một mình giữa thiên nhiên bao la, trước phong cảnh hữu tình, nàng lơ đãng quên cả công việc (hái lá dâu) lòng còn ngơ ngẩn vì giấc mộng đêm qua, được tới Ngư Dương gặp chàng …)

Nỗi nhớ nhung của nàng đậm đà hơn, ray rứt hơn, có ngụ ý đến lòng chung thủy và cả tình chăn gối. Bát Sách mê bài này lắm và dịch như sau đây, mượn lời của Kiều và Chinh Phụ Ngâm:

Bên thành tơ liễu thướt tha,
Ngàn dâu xanh ngắt là đà trên nương,
Quên hái lá, dạ vấn vương,
Đêm qua mộng tới Ngư Dương gặp chàng.

Nàng chinh phụ của Trần Ngọc Lan thực tế hơn, không có mộng mị, nhớ thương vớ vẩn, mà thương chồng bằng hành động. Thấy gió tây lạnh lùng thổi, nàng may áo gởi ra biên cương cho chồng. Nàng viết thư mà lệ rơi tầm tã, chỉ sợ áo đến không kịp.

寄夫                         Ký phu

夫戍邊關妾在吳, Phu thú biên quan thiếp tại Ngô
西風吹妾妾憂夫    Tây phong xuy thiếp, thiếp ưu phu,
一行書信千行淚, Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ,
寒到君邊衣到無?   Hàn đáo quân biên, y đáo vô.

陳玉蘭                    Trần Ngọc Lan

(Chồng làm lính thú tại quan ải biên thùy, thiếp ở đất Ngô. Gió tây thổi vào thiếp, thiếp lo lắng cho chồng. Một hàng thư, ngàn hàng lệ. Lạnh đã đến biên cương rồi, áo có đến không?)

Bài này ý tình chan chứa, thật cảm động, nhưng lời thơ thì không được mỹ lệ, bay bướm như mấy bài trước, do đó Bát Sách dịch thoát ý theo thể lục bát cho có vẻ Việt Nam:

Võ vàng em ở đất Ngô,
Anh đi gìn giữ cõi bờ xa xôi,
Gió tây thổi đến tơi bời,
Làm em lo lắng cho người quan san,
Viết thư mà dạ ngổn ngang,
Một hàng thư cả hàng ngàn lệ rơi,
Biên cương giờ đã lạnh rồi,
Áo kia biết kịp đến nơi cho chàng?

Người con gái chỉ có một thời xuân sắc, tựa như đóa hoa phù dung, sớm nở tối tàn ... sự chờ đợi làm da thêm nhăn, mắt thêm quầng, mái tóc bớt mịn màng, óng ả. Mối ưu tư chính của chinh phụ là sự lo sợ cho dung nhan tàn tạ ... Bát Sách xin dẫn 2 bài:

自君之出矣其二 Tự quân chi xuất hỹ kỳ 2

自君之出矣      Tự quân chi xuất hỹ
不復理殘機      Bất phục lý tàn ky (cơ)
思君如滿月,  Tư quân như nguyệt mãn,
夜夜減清輝      Dạ dạ giảm quan huy

張九齡            Trương cữu Linh

(Từ khi chàng ra đi, thiếp không còn sửa sang khung cửi cũ, nhớ chàng như bóng trăng đầy, đêm đêm bớt dần ánh sáng.).

Lúc đầu đọc bài này, Bát Sách thấy ngang dạ vì cách ví von của tác giả: nàng nhớ chàng mà càng ngày càng giảm thì nguy quá, chẳng lẽ xa mặt cách lòng? Nỗi thắc mắc của Bát Sách được gia phụ giải thích như sau: Nàng chinh phụ lúc này đang độ xuân thì, xinh đẹp mỹ miều như trăng tròn. Nếu nàng phải sống cô đơn, mỏi mòn chờ đợi chinh phu thì nhan sắc của nàng sẽ dần tàn phai như mảnh trăng kia, mỗi ngày một khuyết... Nghe ra có vẻ hợp tình, hợp lý. Tại ông thi sĩ họ Trương làm thơ khó, hay tại Bát Sách lờ quờ? Có lẽ tại cả hai. Đây là bản dịch của Bát Sách:

Từ anh cất bước lên đàng
Từ anh cất bước lên đàng
Chiếc khung cửi cũ chẳng màng nhúng tay
Giờ em như mảnh trăng đầy,
Đêm đêm thương nhớ hao gầy dung nhan.

Trong bài Khuê Tình của Lý Bạch, chinh phụ nói rõ ý hơn: Chàng đi xa em cô đơn, sầu muộn, đến nỗi dệt gấm mà lòng ngổn ngang, khêu đèn mà nước mắt chan hòa. Em tiều tụy đến nỗi soi gương không nhận ra mình, huống hồ khi chàng trở về, liệu có nhận ra em? Có còn yêu em như thuở trước? Đây là 4 câu cuối của bài thơ:
織錦心草草, Chức cẩm tâm thảo thảo,
挑燈淚斑斑。 Khiêu đăng lệ ban ban,
窺鏡不自識, Suy kính bất tự thức,
況乃狂夫還。 Huống nãi cuồng phu hoàn.

閨情李白         Khuê Tình, Lý Bạch

Bát Sách dịch:

Ngồi dệt gấm, dạ ngổn ngang,
Khêu đèn mà lệ dâng tràn lung linh
Soi gương chẳng nhận ra mình
Ngày chàng trở lại, biết tình còn chăng?

Thành thật mà nói, những bài thơ Đường tuy rất hay, nhẹ nhàng, bay bướm và thơ mộng, nhưng không nói được những nỗi vất vả, sự hy sinh, cái tài đảm đang của người chinh phụ, đã thay chồng, một mình quán xuyến việc nhà ... Trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn thị Điểm, chỉ mấy câu mà nói lên được hết những nỗi nhọc nhằn của chinh phụ:

Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân,
Nay một thân nuôi già dạy trẻ

Vả lại cái khổ của vợ lính đâu phải chỉ có sự cô đơn, vất vả, đâu phải chỉ có nhớ thương, đâu phải chỉ có lo nhan sắc tàn phai ... chiến tranh mãnh liệt và tàn khốc quá, tính mạng người lính như chỉ mành treo chuông. Cái khổ nhất của chinh phụ là nỗi thấp thỏm, hoang mang, không biết chồng mình nằm xuống lúc nào!! Khổ nhưng vẫn can đảm chịu đựng, và can đảm chấp nhận sự thật khi bất hạnh xảy đến cho chồng. Bát Sách xin ngã mũ trước những nàng chinh phụ Việt Nam.

Bát Sách Biên Soạn

***
Những Bài Thơ Dịch:
 
Khuê Phòng Oán Than

Phòng khuê nàng chẳng vương sầu
Điểm tô nhan sắc tựa lầu thưởng xuân
Xa trông dương liễu xanh màu
Tiếc xui chàng kiếm tước hầu mà chi.

Kim Oanh
***
Phòng The Hối Hận

Phòng the thiếu phụ chẳng quen sầu,
Xuân đến bâng khuâng đứng trước lầu.
Bỗng thấy cuối đường dương liễu thắm,
Hận khuyên chàng dạo bước công hầu.

Con Cò
***
Tiếng Than Thở Nơi Phòng Khuê.

Phòng the nàng chẳng biết buồn phiền,
Trang điểm, lầu xuân dạo bước lên.
Bỗng thấy bên đường mầu liễu đổi,
Tiếc xui chàng kiếm chút danh quyền.

Mỹ Ngọc  
Jun. 7/2025.
***
Trong phòng khuê thiếu phụ không sầu
Trang điểm ngày xuân bước tới lầu
Chợt thấy bên đường dương liễu thắm
Hối khuyên chồng gắng kiếm công hầu

Lạc Thủy Đỗ Quý Bái
***
Buồn Hận Khuê Phòng

Khuê phòng vợ trẻ chẳng u sầu
Trang điểm ngày xuân bước tới lầu
Dõi mắt bên bờ nhìn sắc liễu
Tiếc chồng xa cách kiếm công hầu

Thanh Vân
***
Oán Khuê Phòng

1-

Phòng khuê thiếu phụ chẳng u sầu
Trau chuốt ngày xuân bước thúy lâu
Bỗng thấy đầu đường dương liễu biếc
Tiếc chàng nghe thiếp mộng công hầu!

2-

Chẳng u buồn phòng khuê kiều diễm
Lầu hoa xuân trang điểm ngát hương
Nhác trông liễu biếc một phương
Tiếc chàng nghe thiếp lên đường cầu danh

Lộc Bắc
*** 
閨怨-王昌齡       Khuê Oán-Vương Xương Linh

閨中少婦不知愁 Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
春日凝妝上翠樓 Xuân nhật ngưng trang thướng thủy lâu
忽見陌頭楊柳色 Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
悔教夫婿覓封侯 Hối giao phu tế mịch phong hầu

Tạm dịch thơ:

Oán Hận Phòng The

Vợ trẻ phòng the chưa biết sầu
Ngày xuân trang điểm xong lên lầu
Đầu bờ chợt thấy liễu xanh thẳm
Hối đã khuyên chồng kiếm tước hầu.

Phóng tác:

Vợ quê tuổi trẻ đã nhiều sầu,
Ngày Tết thăm chồng có gặp đâu.
Chợt thấy bên đường anh hạ sĩ,
Hiên ngang hơi giống gợi niềm đau.

Sorrow of a Young Bride by Wang Chang Ling

In her room,the young bride has not yet learned what sorrow means.
One spring day, while putting on makeup on the upper floor
She advertently noticed the dark green willows on the roadside
And regretted having urged her husband to seek opportunities in the capital.

Phí Minh Tâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét