Ngôi trường Trung học Tống Phước Hiệp khang trang, thơ mộng. Nơi
đây bắt đầu cho tôi những ngày tháng đẹp, bên cạnh thầy cô và bạn hữu. Năm
1969 bước chân vào Đệ Thất 6/8, chúng tôi học môn toán với thầy Đinh
văn Quân, thầy cũng là giáo sư hướng dẫn lớp, thầy rất trang nghiêm,
hiếm khi thầy cười. Học trò sợ thầy lắm! Không bao giờ dám lơ là trong
việc học, thầy có lối trả bài khác với bất cứ những thầy khác, thình
lình thầy gọi đứng lên hỏi định lý, định luật, bất cứ lúc nào, trả bài
trước rồi mới hỏi tên sau.
Nhưng các bạn ơi!" Nhất Quỷ,Nhì Ma ,Thứ Ba Học Trò".
Tuy là con gái mà chúng tôi thành lập một đội banh, gồm mười đứa, Lê
Thi Hoa Phượng, Nguyễn Thi Thu Thủy, Hoàng thị Vĩnh(tự Vĩnh Lùn),
Nguyễn Thi Ánh Tuyết (tự Tuyết garçon), Đỗ Thu Hằng, Huỳnh Thi Mỹ Yến,
Lưu Thi Nguyệt Thanh, Nguyễn Phương Thanh, Nguyễn Thi Vĩnh (tự Vĩnh Ú),
Lê Thi Kim Oanh.Tôi ốm thì yếu chạy không nổi, chúng cho tôi làm thủ
môn. Còn Vĩnh Ú thi .. ú chạy cũng không nổi nên cũng là Thủ môn luôn.
Sở dĩ Tuyết có biệt danh là garçon vì tất cả đội banh đều tóc ngắn
trừ Tuyết, tóc thật dài, ai bảo mi tóc dài chi nên mi là “con trai” đó
!!!
Sân banh của chúng tôi ở dưới dốc Cầu Lầu, nơi bán vật liệu xây cất,
chúng tôi thường đá banh vào những giờ thời khóa biểu trống, hoặc là
thầy cô nghỉ bệnh bất ngờ, chúng tôi cột hai vạt áo dài vào nhau và đá
say mê, có hôm phá giấc ngủ trưa của bà chủ (dì của Hoa Phượng), bà
rượt chúng tôi chạy. Rất vui!
Thầy Đinh Văn Quân thi không bao giờ nghỉ một ngày dạy nào. Bỗng một hôm chờ
hoài mà thầy không đến, chúng tôi mừng khấp khởi, cô gíám thị Phạm Thi
Yêm xuất hiện và bảo:
- Các em im lặng ngồi chờ nếu 20 phút, thầy không đến thì các em được nghỉ 2 giờ.
Trời ơi! Chúng tôi mừng quá, hôm nay đội banh này được ra sân rồi.
Thế là hai con bạn Vĩnh Lùn và Tuyết Garçon đã lẻn ra khỏi lớp tự bao
giờ, bằng ngõ sau của canteen (vì đó là nhà của Mỹ Yến).Hai đứa mua về
một nải chuối, đặt lên bàn thầy, quỳ xuống thành khẩn xin ông Địa
- Cầu xin ông Địa cho thầy Quân bị bể bánh xe , hay bị...bệnh đừng đi
dạy hôm nay. Trời ơi đúng là học trò quỷ rồi, ác quá!
Nhưng hai đứa đang khấn thì.. chúng tôi mặt mày xanh như tàu lá,
im lặng đến một con muỗi bay qua cũng nghe, thầy đã xuất hiện đứng sau
lưng hai đứa, thầy ra hiệu cho bọn tôi im lặng, chờ khấn xong, thầy mỉm
cười hỏi:
- Sao cho ông Địa ăn chuối được chưa? Hai đứa xoay lưng và lạy thầy xì xụp, mặt tái mét mếu máo
- Thầy ơi, tha lỗi cho em,Thầy ơi tại em....và nói không ra lời. .. mếu máo khóc...
Chúng tôi cố nín cười, đến một lúc không còn nhịn được, thầy và cả
lớp đều bật cười ...và cười thật to,vỡ cả lớp.Từ giây phút đó thầy và
lớp 6/8 không còn một hàng rào ngăn cách nữa.Thầy đã có nụ cười thật
tươi, thân ái, khoan dung… và chúng tôi có một năm học thật vui vẻ, hồn
nhiên. Không biết giờ này nơi quê nhà thầy có được đọc những dòng kỷ
niệm này không, và có còn nhớ đám học trò quỷ quái của thầy không? Giờ
đây chúng em cũng khấn cầu. Nhưng lời khấn cầu tốt lành nhất cho sức
khỏe của Thầy .
Kính gửi thầy và các bạn lớp 6/8 một kỷ niệm thân ái khó quên.
Môt năm trôi qua, chúng tôi lên lớp Đệ Lục 7/8, năm đầu đã biết phá
năm nay đâu còn gi là bỡ ngỡ, đội banh vẫn chiếm vị thế chỗ ngồi hai bàn
nhất và hai đưa ngồi đầu bàn nhì. Ngày tựu trường mới 6 giờ sáng chúng
tôi đi vào cửa sau nhà Yến lẻn vào lớp để cặp dành chỗ ngồi.Tiếng trống
báo hiệu, cứ thong thả đi vào là an nhiên tự tại. Năm nay chúng tôi học rất hăng say cũng đùa không kém.
Trước giờ học hay giờ ra chơi chúng tôi đã có mặt trên sân thể
thao, cột hai tà áo dài nhảy dây, bắn ô môi, đánh đũa, bit mắt bắt dê.
Ôi thôi! cũng vì trò chơi bắt dê đâu không thấy mà mười đứa, áo đứa
nào cũng bị rách vạt áo sau.Về nhà Mẹ hỏi.. thi bảo là “áo kẹt vào bánh
xe.” Thời này còn nhỏ xí..u , chưa biết nói dối “ qua cầu gió bay” đâu
nhé .
Nói là “chúng tôi”, thật ra chỉ là “chúng” thôi, chúng phá ghê
gớm, còn “tôi”thì chỉ phá “ngầm”, tôi hay ngồi nhìn chúng phá, hưởng
ứng sau, thấy chỗ nào phá thiếu thi tôi vội .. điền vào chỗ trống…chỗ
nào phá thừa thì can chúng bớt đi. Có lẽ cũng nhờ điểm này mà ký ức tôi
có giờ ghi chép nhanh nhiều kỷ niệm.
Quy luật của đội banh là:
- Phá thầy cô, nhưng không được vô lễ, hạnh kiểm phải giữ tốt tối đa.
-
Đùa chơi thỏa thích, nhưng phải học hết mình, giúp lẫn nhau khi gặp
khó khăn. Mỗi sáng Chúa Nhật họp ở nhà Hoa Phượng ôn bài, hoàn tất bài
cho Thứ Hai, để chiều đạp xe đi vườn trái cây hay đi ăn hàng rong.
- Bàn viết thầy cô lúc nào cũng phủ nắp bàn thật sạch sẽ,
-
Bàn thầy cô mỗi ngày phải có hoa tươi, nhưng hoa không được mua mà là
hoa hái trộm. Những đóa hoa tươi đẹp như một lời cám ơn thầy cô đã vất
vã một ngày vì lũ học trò phá phách này. Khi thầy cô vào lớp, nhìn bình
hoa cho một lời khen:
- Cảm ơn các em hôm nay hoa đẹp quá! Thế là lòng chúng tôi mang cả một mùa xuân sung sướng vui tươi.
Các bạn có biết, trải khăn bàn có hai mục đích đấy.
- Thứ nhất, làm đẹp mắt thầy cô, thầy cô sẽ cảm thấy vui, mà vui mình cũng nhẹ lo âu…lắm lắm !!!
-
Thứ nhì, cứu bồ mấy nhỏ bạn không thuộc bài, chúng tôi để tập dưới gầm
bàn, tha hồ đọc ro ro… Cái khăn bàn đồng lõa che khuất tầm nhìn của thầy
cô.
Xin thầy cô tha thứ cho tính lí lắc của chúng em nhe!!!
Riêng cá nhân tôi có một kỷ niệm vui và cũng khá buồn.
Các bạn thường gọi tôi là con mọt sách, hàng ngày tôi đều vào thư
viện đọc sách, mà luật thư viện chỉ mượn hai quyển, có ngày sách trả về
rất hay, mình không mượn được hơn, tôi bèn len lén mang sách giấu vào
phía trong kệ, hôm sau có mà đọc.
Thầy Phan Văn Chín phụ trách thư viện, thầy đã để ý việc làm của
tôi, có lẽ lâu rồi mà tôi không hay biết. Bỗng một hôm, tôi vào thư
viện, lui cui tìm sách đã giấu hôm qua, tìm hơài không thấy đâu cứ lục
lọi, thầy Chín đứng sau lưng tôi tự bao giờ, thầy đưa ra hai quyển sách
và mỉm cười hỏi:
- Có phải Tuyết Oanh tìm sách này không?
Tôi thật xấu hổ vô cùng, lí nhí:
- Dạ thưa phải, cám ơn thầy.
Thôi thế là Thầy đã biết tẩy tôi ăn gian. Khi đến bàn đóng dấu mượn sách, tôi đính chánh:
- Thưa thầy tên em không phải là Tuyết Oanh.
Thây cười bảo:
- Học trò tên Oanh rất nhiều, khó nhớ, em là học trò trắng nhất tôi gọi là Tuyết Oanh.
Đó là cái tên cũng dễ thương thầy gọi tôi, và cũng nhờ cái tên này mà từ lúc ấy tôi có thể mượn mỗi lần bốn quyển sách.
Sang năm lên lớp Đệ Ngũ 8/8 thầy phụ trách môn Toán, thầy rất hiền
hoà, vui tính, nụ cười lúc nào cũng nở trên môi, cách dạy của thầy giúp
tôi tiến xa hơn môn này từ năm đó.
Mùa Hè lại đến, chúng tôi chia tay, tưởng chỉ ba tháng Hè rồi gặp
lại nhưng định mệnh quái ác, căn bệnh nan y đã mang thầy ra đi vĩnh
viễn. Thầy đã xa tất cả, ngôi trường, thư viện, lớp học, đồng nghiêp và
học trò của thầy. Nhưng trong lòng của chúng tôi thầy mãi mãi rất gần.
Kính Thầy! tuy em không gửi được những dòng kỷ niệm này đến thầy,
nhưng em nghĩ bên kia thế giới thầy cũng đọc được lòng em. Kính hương
linh Thầy một kỷ niệm không phai.
Mùa Hè 1972.
***
Năm Đệ Tứ 9/8, đây là một năm phá nhất của chúng tôi, vì sang năm
sẽ chọn ban, chúng tôi không còn chung lớp, đội banh cũng sẽ tan rã.
Những lần phá chúng tôi đã treo bán xe Honda Dame của Thầy Lê
Thượng Hiền, lấy xe về thầy chỉ nhẹ lắc đầu và cười trừ, từ xa bọn tôi
thì cười thích chí.
Xe của thầy Huỳnh Hữu Trí chúng tôi treo bản đấu giá - 300 đồng.
Thầy cũng chỉ cười và để y như thế chạy, bọn tôi tưởng thầy không thấy
đành gọi:
- Thầy, thầy cái giấy ..
Thầy dừng xe lại, rồi nói
- Lần sau đấu giá cao một chút chia cho thầy với nhé.
Thế là bể mánh hết trơn!!!
Có lần chúng tôi leo lên nóc canteen để trộm xoài nhà cô Hiệu
Trưởng.Vừa với được trái xoài chưa kịp hái, thì cậu con trai của cô bắt
quả tang, cậu bé định chạy vào nhà mét cô, nhỏ Vĩnh Lùn nhanh trí “Ê,
em bé chị cho kẹo nè”, cậu nghe “kẹo” chạy lại cười toe toét, thế là cậu
còn lấy cho các chị cây để thọc xoài dể hơn, và các chị cũng cười toe
toét y như cậu bé. Cám ơn cậu bé ngày xưa nhé, giờ có lẽ cậu đã trở
thành một thanh niên tuấn tú rồi nhỉ!
Năm nay nhà trường tổ chức một cuộc thi đua làm Bích Báo, thế là
chúng tôi cũng ra quân, thi đua cùng các bậc đàn anh đàn chị trước khi
Bích Báo được triển lãm, tất cả các lớp được quyền quảng cáo báo lớp
mình, các quảng cáo được dán vào những gốc cây. Chiều sân trường không
còn bóng ai, chúng tôi lẻn vào nhà của Yến, mười đứa chia nhau đi gỡ hết
quảng cáo của lớp khác, sau đó thì dán báo của lớp mình.
Sáng Thứ Hai, sân trường chỉ còn lại một tờ Bích Báo lớp 9/8 duy
nhất mà thôi.Trước giờ học cô giám thị Lê Thị Hồng Hạnh và giáo sư
hướng dẫn thầy Phan Minh Phụng vào “giũa”cho một trận nên thân, cả lớp
im lặng cười trừ.
Giờ Pháp Văn của thầy Phan Minh Phụng, chúng tôi ăn vụng trong lớp,
nhỏ Vĩnh Ú gọt đu đủ, ai ngờ mủ trơn quá, trái đu đủ vè..o.. bay ngay
góc bục gỗ của thầy, cũng may thầy hơi …thấp người, nên chưa thấy.Trời
ơi! Làm thế nào đây? Còn đang suy tính, không ngờ nhỏ Vĩnh nhanh trí.
-
Thầy em bôi bảng cho thầy nhe, miệng nói, nó đi nhanh lên bảng, tay
bôi bảng, chân đá trái đu đủ trở về. Đúng là cầu thủ đội banh có khác!
Thầy,
cô bảo đây là một lớp phá di truyền và cũng là lớp học giỏi di truyền,
đàn chị mấy năm 9/8 trước cũng thế. Nên thầy cô rất thông cảm và thương
lắm.
Có
hôm giờ toán thầy Nguyễn An Tập, chúng tôi thật dại dột, ăn vụn bò biá,
bọc tương đậu phụng vừa mở ra, mùi thơm phưng phức lan tỏa ..Thầy đang
viết bảng vừa khẽ nói:
- Các em sắp đến giờ ra chơi rồi nhé! Giọng thầy nhẹ nhàng, từ tốn làm chúng tôi… dừng bước.. ăn vụng ngay.
Năm nay chúng tôi cũng có một kỷ niệm thật vui với cô dạy Việt Văn, cô Dương Vương Thị Tùng.Tôi là cô bé được lớn lên ở miền quê, với giọng Nam thì tên tôi gọi bình thường lắm.Nhưng lần đầu vào lớp điểm danh, khi cô gọi tên tôi với giọng Miền Bắc, tôi rất ngỡ ngàng và hân hoan,
Năm nay chúng tôi cũng có một kỷ niệm thật vui với cô dạy Việt Văn, cô Dương Vương Thị Tùng.Tôi là cô bé được lớn lên ở miền quê, với giọng Nam thì tên tôi gọi bình thường lắm.Nhưng lần đầu vào lớp điểm danh, khi cô gọi tên tôi với giọng Miền Bắc, tôi rất ngỡ ngàng và hân hoan,
- Ồ, sao tên mình cũng hay thế này! Cô gọi thật êm tai.
Một ngày đẹp trời, gọi trả bài cô đã khai sinh hết tên bọn tôi thật
ngộ nghĩnh, cô bảo tên cha mẹ chọn, đầy ý nghĩa, ai mà không hiểu thì
biết tay cô.
Phản xạ tự nhiên phải biết tên mình khi cô gọi lên trả bài
- Lê thị Mùa Hè (tức Lê thị Hoa Phượng)
- Nguyễn thị Dòng sông Xanh (Nguyễn thị Thanh Thủy)
- Nguyễn thị Nước mùa Thu (Nguyễn thị Thu Thủy)
- Lê thị Vàng Anh (tên của một loài chim Lê thị Kim Oanh )
- Đỗ Trung Thu (Đỗ thu Hằng)….v…v
Cô là người đầu tiên đem thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Đinh Hùng, Nguyễn
Bính, Nguyên Sa, âm nhạc, mẫu chuyện ngắn, đưa vào giảng Kiều, Chinh
Phụ Ngâm cho chúng tôi thích thú, dễ nhớ, và tỉnh ngủ vì học văn bọn tôi
thường “nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt”. Có hôm đang giảng
“Nách mo cơm nếp” nghĩa là gì? Thầy Nguyễn Thành Đô đi ngang nách
quyển sách, trộm nhìn vào lớp, thế là cô chọn thầy làm đề tài giảng
ngay,
Cô
bảo: “ hôm nay đi ra đồng làm ruộng mà thầy Đô nách mo cơm nếp như nách
quyển sách, thôi chắc hổng dám ăn”. Cả lớp cười vui vẻ, cô nháy mắt
đồng tình với học trò, làm thầy Đô đi như chạy.
Phần nhiều sau mỗi giờ học, chúng tôi đã thuộc hai phần ba bài
thơ. Đó là biệt tài của cô, vì lẽ này mà chúng tôi nuốt môn Văn dễ dàng
hơn. Nhất là tôi, một đứa học trò rất dở và ngán văn chương, thế mà đã
thích văn thơ từ đấy.
Cuối năm cô còn bói Kiều cho chúng tôi để xem vận mệnh, rất vui.
Trong Truyện Kiều chỉ cần nói trang mấy, chúng tôi được nghe cô
đọc vanh vách và thật êm tai. Cô trẻ trung, nghịch phá cũng không
thua học trò của cô, điểm này làm chúng tôi rất gần và thương cô nhiều
lắm.
Xin
thương gửi đến Cô và lớp 9/8 một kỷ niệm đẹp, và em luôn cảm ơn cô đã
cho chúng em một đời học trò đẹp như những dòng thơ, và những áng văn
hay.
Niên khóa 1973-1974. Môn Sử Địa cũng là một môn ngán như ăn cơm
nếp, học phải nhớ từng chi tiết nhỏ, trả bài quên một chữ là quên cả
câu. Nhưng rất may năm này học với Thầy Nguyễn Văn Năm.
Thầy cũng biết điều này, nên thầy cho thuyết trình. Rất lạ! Vì chỉ
có môn Văn mới thuyết trình thôi. Đề tài ra là “Danh nhân thế giới từ
năm …”
Ngày thuyết trình bắt đầu, chúng tôi sửa đề tài, dán tài liệu sưu
tầm lên bảng, viết tựa đề, “Giai nhân thế giới từ năm..” những hình ảnh
giai nhân thật đẹp.Thầy bàng hoàng, sửng sốt !!!
- Các em làm gì vậy? Ai cho các em đề tài này?
-
Dạ thầy cho mà, chúng em ghi rõ ràng mà thầy. Chúng tôi biết thầy
đang cười trong lòng như chúng tôi vậy. Nhưng thầy cố làm nghiêm, thầy
biết chúng tôi tinh nghịch, nhưng chỉ biết lắc đầu, mỉm cười và chịu
thua.
- Thôi tài liệu cũng đẹp lắm. Nhưng các em bị phạt! Và phạt!
Đề tài phạt là “Tôn giáo từ thời….”, chúng tôi chọn “Thiên Chúa
Giáo”. Đúng lắm! Thầy cho chúng tôi “xưng tội” đây. Thời gian hai tuần
lễ ngắn ngủi, môt phen chạy hụt hơi, mỗi đứa chia nhau đến nhà thờ, đến
các Cha, các Soeur, những người đạo dòng tìm tài liệu.
Và chính nơi đây chúng tôi mới hiểu được những tấm lòng nhân ái của
các soeur, đã hy sinh tuổi xuân nuôi dưỡng các em sơ sinh, mồ côi tại
một chủng viện, đường lên nhà thờ Fatima.
Và từ dạo ấy, mỗi sáng Chúa Nhật Phương Thanh, Thu Cúc và tôi sau giờ
sinh hoạt Hướng Đạo, đạp xe lên đó để giúp các soeur một tay, chăm sóc
các em.
Riêng tôi say mê công việc này từ bao giờ, có lần tôi ngỏ ý muốn đi tu nhưng Soeur nhìn tôi mỉm cười nhân hậu, Soeur bảo:
-
Con có thất tình không? Nếu có thì nơi đây con không thể quên được tình
yêu, mà con hãy cầu nguyện. Nếu con muốn giúp đời, con về học cho thật
giỏi, bao giờ con thành tài, con muốn trở lại đây Soeur sẵn sàng dang
rộng vòng tay đón con.
Câu nói ấy như đánh thức lòng tôi.Con xin cám ơn Soeur đã cho con một niềm tin và kiến thức hôm nay.
Em xin cám ơn Thầy, đã giúp cho em thấu hiểu một tấm lòng nhân ái, và một
đức tin mãnh liệt, nhờ đức tin này đã đưa em đến được bến bờ Tự Do hôm
nay.
Sau buổi thuyết trình ấy, chiều tối chúng tôi lén đến nhà thầy để vào
cửa sổ nhà thầy tất cả những tấm hình của “Giai nhân thế giới” tặng
thầy làm kỷ niệm…
Ngày xưa em là con chiên ngoại đạo. Giờ đây em là con chiên ngoan đạo
rồi. Không biết giờ Thầy ở nơi đâu? Có khi nào thầy đọc được dòng kỷ
niệm này không? Nếu có dip gặp thầy, em không còn phá nữa, vì em đã
biết xưng tội rồi thầy ạ. Amen!
Thương gửi về thầy và lớp 10A4 kỷ niệm lém lĩnh không phai nhòa.
Năm Đệ Tam là một bước rẽ khác cho chúng tôi, chọn ban để định đoạt
cho tương lai ngành nghề nào? Thế là bọn tôi tạm chia tay. Buồn lắm!
Đội banh tan rã những giờ ra chơi không còn thấy nhóm này nhảy dây, đánh
đũa, bắn hạt ô môi trong sân trường nữa. Vì sao các bạn biết không?
Làm người lớn! Biết e thẹn và bâng khuâng.
Tuy đá banh, trò chơi con nít không có, chúng tôi chơi vũ cầu thay
thế,và đặc biệt không bao giờ rời sân mỗi dịp được xem các trận thể thao
của đội nhà, của các thầy. Chúng tôi luôn là những ủng hộ viên nhiệt
tình nhất.
Đội banh đứa chọn Ban C, Ban B. Ban A. Trong nhóm còn lại Thu Hằng
và tôi. Chúng tôi có thêm hai cô bạn mới là Diệp Thị Thu Cúc, Trần Ngọc
Hương, nhỏ Hương từ trường Sương Nguyệt Anh ở Saigon về, lần đầu ra mắt
cả lớp, nhỏ e dè, khép nép trông mà tội nghiệp, không ai nhường chỗ
ngồi, tôi và Hằng cảm thấy thương nên rủ nhỏ ngồi chung. Sau nhở ra mới
rõ nhỏ Hương là chúa quỷ hơn bọn tôi.
Đời bỗng dưng vui! Bàn nhất có một ban Tứ Quý hay Tứ Quỷ không chừng !?
Năm nay cũng là năm găng nhất, có thêm một sinh ngữ thứ hai đó là
môn Anh Văn do Thầy Lê Thượng Hìền phụ trách. Các bạn cũng dư biết thời
đi học, đầu tháng học tà tà, giữa tháng cắm đầu cắm cổ mà học, kẽo
không thầy cô mà rà cây viết lên bảng phong thần thì bụng sẽ đánh lô tô,
ngoài ra sẽ có làm bài kiểm tra nữa nhé!
Hôm ấy, một ngày đẹp trời.Thầy bước vào chào hỏi xong. Bỗng nhiên thầy bảo:
- Các em lấy một tờ giấy trắng ra, điền tên, lớp vào góc giấy.
Trời ơi! Thôi chết rồi thầy bắt đúng yếu điểm của bọn tôi chăng? Cả lớp nhao nhao:
- Phản đối thầy.
Vẫn ôn tồn thầy bảo:
- Các em im lặng, lấy giấy viết ra.
Như đàn ong vỡ tổ. không ai chịu nghe lời thầy, cả lớp nhao nhao
- Kỳ vậy thầy, chưa cuối tháng mà, chưa ôn bài thầy ơi, phản đối thầy.
- Hôm nay trời đẹp mà thầy!
Không đứa nào tuân lời thầy.
Thế là phạt, phạt.. vì tội lớn tiếng, mất trật tự , không học bài, không tuân lời, chống đối…v…v…
Nhưng vẫn một giọng ôn tồn, nhỏ nhẹ thầy bảo:
- Hôm nay trời đẹp lắm, các em không học bài thì ra sân hóng nắng, và xuống giọng một chút thầy tiếp:
- Hôm nay cho dù có xài nước cơm, cũng không trắng nổi, thầy vừa nghiêm vừa mỉm mỉm cười.
Bọn con gái chúng tôi thì cũng vừa cười vừa thẹn.Trời ơi! Sao thầy
rành tâm lý con gái dữ vậy, có mỗi cái làm điệu mà thầy cũng lật tẩy
luôn.Thế là buổi đẹp trời hôm ấy chúng tôi đã cùng thầy ra sân hong
nắng!
Thầy nói thế thôi chứ cũng không nỡ lòng, thầy cho đứng dưới hàng
cây điệp gần ngôi mộ, nắng chỉ đủ soi qua kẽ lá, gió nhẹ mơn man, chúng
tôi cười lý thú, đây là hóng gíó thôi chứ đâu hóng nắng như thầy bảo
đâu nè..Nắng hanh, gíó mát, có đứa ngẩu hứng làm thơ, có đứa mơ màng thả
mộng.Thôi không uổng công mình xài nước cơm rửa mặt và có lẽ thầy cũng
thông cảm bọn con gái xài nước cơm rửa mặt để làm đẹp hở thầy!?
Thầy lên phòng giáo sư, phút chốc trở lại:
- Mời các em vào lớp.
Chết nữa rồi, run rồi đây, tại vì chữ “Mời”của thầy nghe sao mà trang trọng quá.
Vừa vào lớp
- “Mời” các em ngồi xuống!
Lần này im lặng như tờ, muỗi bay cũng nghe. Rất chậm rãi thầy bảo
- Các em lấy giấy trắng ra, điền tên, lớp vào góc giấy. Không ai nói lời nào, cả lớp nhìn nhau ái ngại.
Thôi học kỳ này xem như chiếc lá trôi sông!
Ai nấy đều phập phồng chờ đợi lo âu, thầm bảo: “Thầy ơi, đừng cho bài khó nhe thầy!”
Thầy thì cứ mỉm mỉm cười, lòng học trò thì ức lắm, mình thì rầu trong dạ, mà thầy thản nhiên cười cười…
Giây phút hồi hộp cũng đến, vừa bảo thầy vừa viết lên bảng đen “Cố gắng học hành, từ nay không làm ồn trong lớp”.
- Các em viết vào giấy một trăm câu.
Cả
lớp đồng thanh la lên một tiếng “th..ầ……y”…Tất cả đều thở phào nhẹ
nhõm, nụ cười nở trên môi, thầy lẫn trò đều vui, chan hòa một tình
thương êm ái.Trong giây phút đó chúng tôi mới cảm được thế nào là tình
thầy trò thân ái, một kỷ niệm khó quên trong đời chúng tôi.
Giờ đây sau 30 năm, mỗi lần nhớ lại, tôi vẫn cảm thấy như mới hôm
qua. Cho dù ngày nay tất cả thầy trò người một phương trời cách biệt. Ai
còn, ai mất ? Nhưng tôi tin rằng thầy và chúng tôi vẫn mãi mãi gần
nhau, trong kỷ niệm đẹp này.
Thương gửi thầy và các bạn lớp 10A4 kỷ niệm hồn nhiên thương mến.
***
Niên khóa 1974-1975, thêm một năm mới, mấy cô bé ngày nào giờ đã
lớn, đã đổi thay nhưng có lẽ cái tính ăn hàng không bao giờ thay đổi
trong chúng tôi, mặc dù là đàn chị, nhưng các bạn xem, ăn hàng không biên
giới mà các bạn nhỉ! Cửa chính lớp chúng tôi từ trên lầu nhìn xuống là cột cờ,
nhìn xuống cửa sổ là một con đường nhỏ, dãy nhà của Tiểu Khu, mà nay tôi
đã không nhớ tên. Nhưng Chú Tàu Lai bán bánh Tét tôi không bao giờ
quên.Trước giờ ra chơi, chú chạy chiếc xe đạp phía sau là giỏ bánh tét,
với giọng rao bánh bỏ dấu theo cách phát âm của chú, khi nghe là cả lớp
cười khúc khích “ Tẹt.. tẹt,..tẹt...” và chú dừng chân nơi cuối đường
để chờ chúng tôi. Giờ ra chơi đã điểm, chúng tôi vội chạy ùa ra cửa sổ,
tiền được gói vào trong giấy học trò và ném xuống đường cho chú, chú ném
bánh tét (Người Hoa gói nhỏ khoảng một gang tay, không cột dây) qua
cửa sổ cho chúng tôi.
Ôi! Thật ngon, không gì thích và vui cho bằng,được ăn lén thầy
giám thị Quách Hữu Phước, vì thầy đi thanh tra chúng tôi kỹ lắm.
Môt hôm cũng điệp khúc này tái diển, chú Tàu ném đòn bánh lên cửa
sổ thì vèo…chiếc bánh bay thẳng ra ngoài cửa lớp, chúng tôi bắt hụt, có
lẽ lâu ngày không đá banh chăng, cho nên chiếc bánh đã rơi vào tay người
khác? Hốt hoảng vội chạy ra…Thì hởi ơi! Người bắt chiếc bánh không ai
khác hơn là thầy Huỳnh Hữu Trí. Cả bọn gãi đầu năn nỉ :
- Thầy cho em xin, cám ơn thầy.
Đã không trả lại mà thầy còn bỏ vào túi áo, cười tươi lắm thầy bảo:
- Cám ơn các em từ sáng giờ, thầy chưa ăn sáng.
Thầy tỉnh bơ bỏ đi với chiếc bánh của chúng tôi.
- Thầy, thầy trả lại….Thầy quay lại vẫy chào ….và đi luôn.
Đành chịu thua thầy! Cũng từ lúc ấy thầy biết bọn tôi ăn hàng trong
lớp, nhưng thầy rất thông cảm, im lặng bao che cho lũ học trò nghịch
ngợm này, bí mật này thầy giám thị không bao giờ khám phá ra.
Thầy ơi! Giờ này ở Việt Nam mỗi độ Xuân về thầy ăn bánh tét, thầy
có còn nhớ đến chúng em không? Và biết đến bao giờ lớp11A4 được cùng
thầy ăn bánh tét không thầy nhỉ?
Trong giờ toán thầy bảo:
Trong giờ toán thầy bảo:
- Các em xem Ban C người ta nhu mì, nhỏ nhẹ.
Cả lớp hỏi:
- Ban B thì sao thầy?
- Ban B thì cứng cỏi, thông minh. Ban A các em thì…
Chưa kịp để thầy nói hết câu, chúng tôi đồng thanh nói:
-
Ban A thì tổng hợp cả hai ban, nhu mì, nhỏ nhẹ, cứng cỏi, thông minh,
thế thì hết chỗ để nói và cũng hết chỗ để chê phải không thầy? Thầy chỉ
biết lắc đầu cười chấp nhận. Khi vào lớp, thầy luôn nhìn bình hoa tươi
bảo:
- Cảm ơn các em hoa hôm nay đẹp lắm!
Cả lớp:
- Hoa đẹp là hoa quý lắm đó thầy !
Thầy gật đầu:
- Đúng, rất quý nhưng các em coi chừng chó dữ nhé!
Cả lớp rộ cười, thì ra thầy đã biết đấy là hoa ăn cắp!!!
Thương gửi về thầy Huỳnh Hữu Trí và lớp Đệ Nhị - 11A4 một thời ăn hàng lý thú, một kỷ niệm thật đẹp khó quên.
(Thầy Huỳnh Hữu Trí)
Một thời thiếu nữ sắp chia xa, năm nay là năm cuối cùng trong ngôi
trường thân yêu đầy kỷ niệm, chắt chiu cho đầy tình nghĩa để làm hành
trang vào đời.
Nhưng rồi biến cố 1975 xảy ra mỗi người một lý tưởng, một nỗi buồn
đến với tất cả thầy cô, bạn bè. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc sống nơi
mái trường này cho đến năm cuối. Có nhiều điều thay đổi. Nhưng tình thầy
trò tình bằng hữu không bao giờ thay đổi trong chúng tôi.
Thầy Lâm Văn Sang là giáo sư hướng dẫn, thầy bảo chúng tôi phải
có một ban văn nghệ, miễn công tác thủy lợi xa, còn gì hơn, thế là ban
văn nghệ ra đời. Thanh Loan, Kim Loan,Tùng Thu,Thu Ba, Ngọc Anh, Ngọc
Hương, Thu Cúc, Kim Oanh con trai Tấn, Đệ, Kiệt, Song, Hóa, Nhã,
Hải(Sau 1975 trường Bán Công, Tư Thục bị giải thể và sáp nhập vào trường
Công nên có Nam sinh học chung). Thầy và đám con trai đàn và con gái
thì trở thành ca sĩ bất đắc dĩ.
Thầy rất hiền ít nói đàn hay, ca cũng hay. Tại học trò dành nói cả rồi
thầy nhỉ? Chúng tôi thường lén đàn hát những bản nhạc thời xưa, cảm ơn
thầy lắm, đã cho chúng em nghe những lời nhạc để quên đi một cuộc sống
khó khăn thời ấy. Để tiếp tục đi nốt niên học cuối cùng nơi ngôi
trường Tống Phước Hiệp thương yêu.
Năm này có con trai từ trường Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trường Tộ
chuyển sang học chung. Nên bộ bốn,Thu Hằng bị đổi lớp, chỉ còn lại
Hương, Cúc, Oanh.Tam cô nương cũng tiếp tục đóng đô bàn nhất, có con
trai thì có rắc rối. Nhưng bộ ba nhất định vui, buồn đều chia sẻ cho
nhau, cùng nhau sát cánh.
Một anh chàng tên Hoàng. viết thư tán tỉnh nhỏ Hương để vào hộc bàn
“ Bé Hương đọc xong nhớ trả lời”, ba đứa đọc xong, không trả lời, mà
trả lại vị trí cũ.
Hôm sau, lá thư được sao y bản chính tán tỉnh “Bé Oanh đọc xong nhớ trả lời”, ba đứa đọc xong, không trả lời, vẫn trả lại.
Hôm sau, lá thư đó được đổi tên cho Cúc. Đọc xong cười ngất! Và cả ba cùng ký tên cuối lá thư, trả lại cho khổ chủ.
Từ sau hôm ấy, anh chàng ta đi học không bao giờ dám vào cửa chính
vì ba cô nàng ngồi bàn nhất nhìn anh ta cười ..cười ..Thế là anh ta vào
lớp bằng cửa sổ mà thôi. Anh ta có ngờ đâu, chúng tôi tuy ba là một.
Trong ban nhạc ghẹo tên tắt ba đứa tôi ghép lại là ba con “CHÓ”
Không được, có dịp sẽ “trả thù ” cho biết tay!!!
Con gái cái tính ăn hàng không bỏ. Một buổi trưa Chúa Nhật, ba đứa
đi ăn bún riêu Bà Cả ở Cầu Cái Cá, không học trò nào ăn hàng mà có thể
quên được. Một tô bún đầy riêu cua, gạch cua vàng ánh, một đĩa rau ghém,
một lọ mắm tôm, một đĩa chanh, ớt.. Chao ôi ngon tuyệt!!! Ba đứa đang
ăn, anh trưởng lớp Trần Ngọc Tấn đi ngang, thấy ba đứa và cùng vào ngồi
ăn.
Ăn xong anh ta dành trả tiền, con trai mà, muốn ga lăng. Ba đứa
cười không nói nhiều, để yên cho anh ta trả. Có dịp “trả thù” rồi
đây. Phá anh ta một lần cho biết. Nhưng anh vào rồi không thấy trở
ra..lắng nghe anh ta đang năn nỉ Bà Cả xin cho thiếu nợ. Ba đứa cười
khúc khích..cho anh chờ lâu chút nữa, ba đứa vào.. thì ra anh không đủ
tiền để trả tất cả mười tô!!!
Mặt anh mếu xệu:
- Trời ơi! Ba cô ơi, ăn gì dữ vậy? Tôi tưởng bốn người, bốn tô thôi. Ai ngờ ba cô ăn đến tô thứ ba rồi…
Chúng tôi cười thỏa thích …và tha cho anh.
Thật sự tôi cũng không biết bao tử của bọn tôi là bao tử gì? Có lẽ
vui quá ăn quên thôi. Ba đứa ra về trong vui vẻ nhưng… không quên ghé
ngang cổng trường Nguyễn Trường Tộ, tráng miệng một ly chè đậu đỏ bánh
lọt (nói khe khẽ thôi, kẻo thiên hạ cười chết đấy!).
Thân gửi đến anh lớp trưởng Trần ngọc Tấn một kỷ niệm để đời, để nhớ !
Và giờ đây bộ ba chúng tôi ở ba phương trời cách biệt Việt Nam, Mỹ, Úc nhưng ba đứa vẫn là một tâm hồn.. “ ăn uống!”.
Ta gửi về hai nhỏ bạn, Hương, Cúc thương yêu nhất của ta một thời để thương để nhớ.
Thương
gửi đến các bạn lớp 12D8 (Ban A thời Cộng Hoà) một kỷ niệm chưa bao giờ
các bạn được nghe.Vì ai cũng xấu hổ nên cùng nhau im lặng
"Vẳng đâu đây đó tiếng cười giòn tan
Mộng mơ bỏ chuyện thế gian
Cho lòng ấm lại cười thầm mình ta
Bạn xưa một lũ ta bà
Phá thầy ghẹo bạn đậm đà tình thương
Đố ai quên được một lần”
Chuỗi ngày thơ dại có ngần ấy thôi”
(Không nhớ tên tác giả)
Mộng mơ bỏ chuyện thế gian
Cho lòng ấm lại cười thầm mình ta
Bạn xưa một lũ ta bà
Phá thầy ghẹo bạn đậm đà tình thương
Đố ai quên được một lần”
Chuỗi ngày thơ dại có ngần ấy thôi”
(Không nhớ tên tác giả)
Kính
gửi đến thầy cô, các bạn, tất cả vui, buồn dưới mái trường xưa Tống
Phước Hiệp, Vĩnh Long. Văn chương em không đủ để viết những lời hoa mỹ.
Nhưng em xin ghi lại cảm xúc của em bằng một con tim. Thầy cô tuổi đã cao
và em không còn trẻ nữa..Em không ngại gì, em chỉ ngại là không được
nói tiếng thương yêu những tháng năm dài em ấp ủ.
Và
sau 29 năm xa cách, một tin vui nhất đời, tôi tìm được đội banh năm nào,
Nguyệt Thanh ở Mỹ, tôi ở Úc, các bạn còn lại Việt Nam, tuy đời sống khó
khăn, nhưng đội banh vẫn thủy chung, các bạn họp mặt trong tình thương
yêu, đậm đà.
Tất cả thương yêu xin gửi về các bạn, kỷ niệm một thời áo trắng của
chúng ta. Hẹn một ngày về nhé “Đội banh Tống phước Hiệp.”!
(Đội banh ngày xưa hội ngộ: Lê Thị Hoa Phượng, Nguyễn Thị Thu Thủy, Diệp Thị Thu Cúc, Lê Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Vĩnh(Tự Vĩnh Lùn)
***
Mục Lục: Những Bài Văn Khác: Nhấp vào Links
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét