Xướng: Thành Phố Bốn Mùa Trong Ngày Đủ bốn mùa trong mỗi một ngày Sapa - thành phố giữa ngàn mây Sáng trời mát dịu như xuân đến Trưa tiết ấm nồng tựa hạ thay Thu lãng đãng sương: chiều xuống nhẹ Đông mù mịt giá: tối dâng đầy Thiên nhiên diễm ảo luôn thay sắc Có ở nơi đâu giống chốn này? Phương Hà ( 28/08/2018 ) ***
Bài Họa: Tri Ân Nước Úc! Melbourne ấm lạnh đến trong ngày Xanh trắng lưng trời pha sắc mây Sáng nắng vấn vương kìa tuyệt thật Chiều mưa thơ thẩn đấy xinh thay Tự do yên ổn dân sung túc Hạnh phúc ấm êm phước đủ đầy Cảm tạ lòng nhân luôn rộng mở Tri ân đất nước Úc Châu này! Kim Oanh
Suốt đời Ba vẫn gọi Mình Thiết tha Má cũng thuận tình Mình ơi! Đến giây phút cuối chẳng vơi Quyết không xa cách về Trời chơ vơ Nghĩa tình chẳng thể ơ hờ Mộ chung một nấm đợi chờ thiên thu Chia nhau ấm lạnh mưa mù Thiên Đàng hương quyện ẩn mờ khói sương Cõi trần ngắn ngủi trọn thương Tử quy vinh phúc hồn vương đậm tình
16 năm Má đã ra đi Nhưng hình bóng vẫn khắc ghi từng ngày Trung Thu lại trở về đây Má không còn nữa so dây dạo đàn Hát vang ca khúc rộn ràng Ngậm ngùi trăng tủi võ vàng thu nay Lòng con thui thủi Má hay Tình yêu ấp ủ từng ngày khắc ghi!
Xướng: Vết Mòn... Mòn chân lần theo dấu cát Biển ru tình về gió mát đi rong Tóc mai rải hương lối mộng Gởi đến người trời lộng ngàn mây Nếm men trăng mật vị cay ̣Đất trời say quắt lăn quay sóng gào Âm u khúc ngậm ngùi đau Xoay đời bạc bẽo nghêu ngao cuộc tình Sương khuya vội vã buông mình Bão lòng phủ cát chôn linh hồn gầy Bên bờ vực thẳm lung lay Người đi tìm vết có hay dấu mòn?! Kim Oanh *** Các Bài Họa : Dấu Mòn Chân trần tìm theo vết cát Sóng ba đào vang dội mát rêu rong Tóc ai ngát hương giấc mộng Khiến lặng người lồng lộng chòm mây Lại men trăng mật đắng cay Cớ sao say rượu cuồng quay gió gào Âm thầm vị ngọt bùi đau Đời nay trắng đổi đen mau phụ tình Sương đêm lạnh lẽo quanh mình Không ngờ bão cát phủ nhanh thân gầy Bên ni bãi biển lắc lay Ai đi dò vết biết đây dấu mòn?! Mai Xuân Thanh Ngày 12/09/2018
*** Chuyện Tình Yêu Chuyện yêu đương ôi bãi cát Khi nộ cuồng rồi dịu mát tình rong Ngỡ như đắm chìm trong mộng Lúc chơi vơi như gió lộng vờn mây Ngọt ngào phảng phất hương cay Đang vui lại bỗng cuồng quay kêu gào Trong hạnh phúc lẫn niềm đau Nhưng đời đâu mấy ai ngao ngán tình Khi yêu nhiều lúc quên mình Cây si lắm kẻ thân nhanh hao gầy Sóng gờn nguyệt khuyết lung lay Muốn quên tình lỡ nào hay chẳng mòn.
Quên Đi *** Hương Thu Ngát Mộng Bốn phương trời mù mịt cát Tìm đâu lối nhỏ trong mát chơi rong Định về ủ thơ hoa mộng Thấy em e ấp gió lộng trời mây Rượu tình chưa nhạt men cay Đầu mùa cốm ngát hương bay nhạc gào Làm sao lấp được niềm đau Như loài nhuyễn thể thân ngao sóng tình Chim khuyên hót tặng chúng mình Những lời mật ngọt hiển linh cúc gầy Thế rồi mộng mị lộng lay Tỉnh ra buồn thấm vương bay tuổi mòn ...
Tôi thích một mình đi dưới mưa Tha hồ cảm nhận lẫn vui đùa Từng cơn xối xả trên đầu xuống Những giọt văng tràn theo bước đưa Rửa sạch bụi nhơ làm xác bẩn Gột trôi nết xấu khiến tâm mờ Thảnh thơi, nhẹ nhõm như người mới Lòng rộn ràng trong những ước mơ...
Sông Thu 28/08/2018
***
Bài Họa:Mưa Tình
Quen nhau cái buổi dưới hiên mưa Tay chạm bàn tay hứng nước đùa Có lẽ tâm hồn đà quấn quýt Hình như ánh mắt đã đong đưa Ngày qua nhung nhớ lần đường cũ Tháng lại vẩn vơ dõi bước mờ Tháng Sáu bập bềnh bong bóng nước Soi tìm ảnh ảo nhớ người mơ
Từ thuở thuyền băng vượt sóng ngàn Vì đời con dốc chửa lăn xong Xuân phai kỷ niệm thời hoa bướm Hạ nhạt dư âm tiếng trống tràng Thu gợi môi khô mùa lá rụng Đông về mắt ướt lúc mưa sang Tha hương cố quốc tim hoài vọng Chợt nỗi buồn lên lệ chứa chan.
Thủy Lâm Synh HB, CA Sept. 02, 2018 ***
Bài Họa: Tình Nhà Nợ Nước
Cánh chim bạt gió vượt mây ngàn Thao thức năm dài biết chẳng xong Nặng nợ giữ gìn yên Tổ Quốc Chung lo gánh vác ổn sa tràng Nằm gai núi thẳm bao mùa đến Nếm mật rừng sâu mấy tiết sang Vì nước quên mình hùng bất tử Yêu chàng vẹn thủy nghĩa tình chan
Tây phong sinh thúy la Tàn huỳnh thê ngọc lộ Tảo nhạn phất kim hà Cao thụ hiểu hoàn mật Viễn sơn tình cánh đa Hoài Nam nhất diệp lạc Tự giác Động Đình ba
Hứa Hồn (Thời Vãn Đường) ***
Dịch Thơ:
Đêm khuya bồng bềnh se sắt Gió tây thổi nở rêu xanh Đóm tàn ngủ trên sương ngọc Nhạn sớm ruổi cánh ngang trời Rừng cây về sáng u mặc Núi xa mây tạnh rỡ ràng Hoài Nam một chiếc lá rụng Động Đình nổi sóng cảm thông!
Khuya khoắt băn khoăn tiếng sắt cầm Gió tây rêu nở vẻ như tân Đóm tàn sao ngủ trên sương ngọc Nhạn sớm lại bay dưới dải ngân Trầm mặc cây rừng yên buổi sáng U nhàn sơn thủy lặng thiên vân Lá thu lẻ chiếc Hoài Nam rụng Hồ Động Đình cơn sóng chuyển âm
Mai Xuân Thanh Ngày 08/09/2018
*** 早秋 Tảo Thu
遙夜泛清瑟, Dao dạ phiếm thanh sắt,
西風生翠蘿。 Tây phong sanh thúy la.
殘螢棲玉露, Tàn huỳnh thê ngọc lộ,
早雁拂金河。 Tảo nhạn phất kim hà.
高樹曉還密, Cao thọ hiểu hoàn mật,
遠山晴更多。 Viễn sơn tình cánh đa.
淮南一葉下, Hoài Nam nhất diệp hạ,
自覺洞庭波。 Tự giác Động Đình ba.
許渾 Hứa Hồn
Chú Thích:
- Tảo thu 早秋 : là Buổi sáng mùa Thu.
- Phiếm : là Lan man, ở đây có nghĩa là Đàn. Phiếm thanh sắt là : Đang gãy đàn.
- Thuý La là những dây leo màu xanh lá cây.
- Tàn Huỳnh: Ánh sáng sắp tàn của con đom đóm.
- Ngọc Lộ: Những hạt sương sớm lắp lánh như những hạt ngọc.
- Kim Hà: là Giải Ngân Hà trên bầu trời.
- Mật: là Dầy, chỉ Rậm rạp, chưa tàn úa.
- Hoài Nam:
用《淮南子説山訓》“見一葉落而知歲暮”和《楚辭九歌湘夫人》“洞庭波兮木葉下”意。Hai câu cuối dùng điển tích trong Hoài Nam Tử thuyết sơn huấn là "Kiến nhất diệp lạc nhi tri tuế mộ" Có nghĩa : Thấy một chiếc lá rơi thì biết là năm đã sắp tàn. Và ý trong Sở Từ cửu ca Tương Phu Nhân là "Động Đình ba hề mộc diệp hạ" Có nghĩa : Một chiếc lá rụng trên làn sóng nhấp nhô của hồ Động Đình.
Nghĩa bài thơ: Sáng Thu
Trong đêm dài dằng dặc có tiếng đàn ai đó cứ réo rắc thâu canh, gió tây hiu hắt làm lay động những dây đằng la xanh biếc, và trong đám cỏ xanh còn lắp lánh những hạt sương mai làm cho ánh lửa của những con đom đóm như sắp lụi tàn. Đàn nhạn sớm bay lướt ngang qua dãy Ngân Hà hướng về Nam, hàng cây cao buổi sáng vẫn còn rậm rạp chưa úa tàn và xa xa nắng đã lên tràn ngập trên các núi đồi. Một chiếc lá Hoài Nam rơi rụng trên sóng nước hồ Động Đình thì biết rằng mùa thu đã đến và năm đã sắp tàn rồi.
Suốt bài thơ đều xoay quanh ý sáng thu: Tiếng đàn thâu canh suốt sáng, gió sớm làm lay động các dây leo chùm gởi; sương sớm lắp lánh làm mờ nhạt đi những ánh lửa đom đóm, đàn nhạn sớm lướt qua dãy Ngân Hà, hàng cây buổi sáng còn rậm rạp,
đồi núi xa xa tràn ngập ánh nắng ban mai ... Qủa là một buổi sáng đầy hình ảnh và tiếng động của mùa thu làm ray rức lòng người viễn xứ, đàn nhạn xuôi nam tránh lạnh, còn người lữ thứ thì bao giờ mới được về lại quê xưa ?!...
Diễn Nôm:
Sáng Thu
Đàn suốt đêm ray rức, Gió tây lay dây lan. Đóm tàn bên sương lạnh, Nhạn lướt cạnh sông Ngân. Cây sớm tàn rậm rạp, Nắng lên núi xa gần. Hoài Nam một chiếc lá, Động Đình sóng mênh mông! Lục bát:
Đàn ai thánh thót canh tàn, Gió vàng hiu hắt lay giàn dây mơ. Đóm tàn lắp lánh sương mờ, Nhạn tung cánh sớm lướt bờ sông Ngân. Cây cao sáng hãy xanh ngần, Núi đồi nắng sớm như gần như xa. Hoài Nam chiếc lá la đà, Động Đình sóng gợn thu qua đông tàn! Đỗ Chiêu Đức
***
Dịch Nghĩa:
Trong đêm dài tiếng đàn sắt trong trẻo vang vọng
Gió tây thổi qua khiến những nấm xanh mọc lên
Những con đom đóm tàn hơi bám vào hạt sương khiến hạt sương giống như ngọc
Chim nhạn bay sớm lướt qua dãy Ngân Hà
Trời sáng mới thấy những cây cao thật rậm rạp
Trời tỏ mới thấy nhiều dãy núi ngoài xa
Một lá cây rơi xuống sông Hoài
Cảm thấy như hồ Động Đình nổi sóng
Dịch Thơ:
Thu Sớm
Đêm vắng đàn ai khẩy vọng sang Gió tây lất phất nấm xanh tràn Sương mai kề đóm trông như ngọc Bóng nhạn bên trời vỗ cánh sang Sáng hẳn thấy rừng cây rậm rạp Trời trong nọ dãy núi hàng hàng Sông Hoài chiếc lá rơi xao động Cứ ngỡ Động Đình ngọn sóng lan.
Quên Đi *** Tảo Thu
Réo rắt đàn đêm vắng Gió Tây kích nấm ra Đóm tàn cạnh móc ngọc Nhạn sớm lướt Ngân Hà Trời sáng lộ cây rợp Cảnh quang tỏ núi xa Sông Hoài rơi chiếc lá Sóng Động Đình dường qua
Kim Phượng *** Thu Sớm
Đàn đêm réo rắt canh thâu Gió tây lay đọng xanh màu đằng la Đom Đóm ánh ngọc sương sa Sớm mai nhạn lướt Ngân Hà về nam Rừng cây vầng dương ló dạng Đỉnh đồi tỏa nắng lan tràn trời trong Hoài Nam lá rụng trên sông Dường như dậy sóng mênh mông Động Đình
Kim Oanh *** Thu Sớm
Đàn ai réo rắt suốt năm canh Gió hắt hiu lay động lá cành Sương sớm long lanh che lửa đóm Nhạn đàn tung cánh lướt trời thanh Sáng ra lộ bóng cây cao vút Trời tỏ in hình núi thẳm xanh Một chiếc lá rơi trên mặt nước Động Đình đồng cảm sóng lan quanh.
Phương Hà *** Thu Sớm
Suốt năm canh đàn ai réo rắt Gió Tây làm lay lắt lá cành Đóm tàn,sương sớm long lanh Bên trời cánh nhạn lướt nhanh ngân hà Ánh thái dương cũng vừa ló dạng Nắng đầu ngày núi rạng xanh trong Sông Hoài lá rụng xuôi dòng Động Đình lan sóng chạnh lòng Thu xa
Tuổi hoàng hôn, lưu vong trên đất khách Không chi vui bằng có bạn tâm giao Trao đổi điện thư, tặng thơ, tặng sách Thỉnh thoảng điện đàm, thăm sức khoẻ nhau. Tuy xa lạ nhưng có cùng sở thích Lấy nhạc, thơ, văn, giải trí thanh tao Tình bằng hữu, thương nhau như huynh đệ Tâm sự vui buồn, san sẻ cho nhau. Chín bạn tri âm, ba Nam, sáu Nữ Họp cùng nhau thành một gia đình Minh Nguyệt, Minh Giang, Kim Oanh, Thu Cúc Dư Thị Diễm Buồn, Ngọc Hạnh, Hoa Văn. Hàn Thiên Lương ở tận Oregon Anh Huynh Trưởng, Lão Mã Sơn, bút hiệu Chín Anh Chị Em tri âm, tri kỷ Như Bá Nha kết nghĩa với Tử Kỳ. Thành một gia đình đệ-huynh bốn biển San sẻ vui buồn trong cảnh tha hương Để chờ ngày Tổ quốc hết nhiễu nhương Cùng nắm tay nhau trở về quê Mẹ.
Từ độ quê nghèo yên khói lửa, Mẹ ngồi khắc khoải đếm sương khô. Núi sông phảng phất mùi thây rữa, Vất vưởng hồn oan, chẳng nấm mồ!
(Đỗ Bình)
Mưa Paris chiều nay làm tôi gợi nhớ về những chiều mưa trên quê hương mưa Sài Gòn, mưa Phố Huế, mưa Cao Nguyên và cơn mưa phùn Hà Nội lúc còn bé của thời xa xưa. Đang bay bổng trong những hồi tưởng kỷ niệm đẹp hồn tôi bỗng se lại vì chợt nhớ cơn mưa chiều năm ấy, những hình ảnh cũ hiệm ra như một khúc phim của một quãng đời tưởng đã nhạt phai theo thời gian nhưng nó vẫn ẩn trong tiềm thức.
Chiều năm ấy màu hoàng hôn xám xịt làm đổ những cơn mưa tầm tã. Trời như trút nước những giọt mưa nặng chĩu phủ cánh rừng, hạt giăng mờ con đường dẫn đến trại tù, trắng xóa lớp hàng kẽm gai rào quanh trại như muốn xóa bỏ những móc nhọn đang vây hãm những người bị mất tự do. Tiếng mưa lẫn tiếng gió hú tạo thành một âm thanh rờn rợn, tê tái, khiến cảnh sắc trại tù thêm thê lương!
Hồi còn ở trại tù Suối Máu và trại An Dưỡng tôi gặp lại rất nhiều bạn thời đi học cũng như bạn cùng đơn vị, ngày ấy tôi đã gặp một người bạn, anh thuộc lớp đàn anh của tôi trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, có bằng cao học Văn Khoa trước khi vào lính. Anh Nghiêm Đặng đang đảm trách trưởng khối của một đặc khu chẳng hiểu anh bị đổi, hoặc thích chiến trường nên xin thuyên chuyển ra đơn vị tác chiến và được đưa về ban tham mưu bộ chỉ huy chiến thuật nhưng chẳng đảm trách nhiệm vụ gì, mặc dù cấp bậc của anh ngang với tiểu đoàn trưởng!
Anh dáng người cao dong dỏng, da chưa xạm nắng phong sương của núi rừng, nhưng trong màu áo trận trông anh có vẻ oai hơn, và vẫn đậm nét nghệ sĩ. Anh ít nói, cử chỉ từ tốn, thích trầm tư như triết gia, phong cách ngược hẳn với một người lính nhanh nhẹn xông xáo. Anh có tài thổi Harmonica thỉnh thoảng giúp vui văn nghệ nên được tất cả mọi người trong đơn vị qúy mến. sau hiệp định Paris chiến tranh ngày càng khốc lệt, đã có biết bao người ngã xuống nơi chiến trường nhưng anh không tìm cách ở hậu cứ, nấn ná nơi văn phòng có rất nhiều việc để làm, mà thường theo chúng tôi đi hành quân.
Anh ra chiến trường vũ khí mang theo là cây bút và mớ kiến thức về chính trị nên không phải muốn làm người hùng mà chỉ muốn làm giống các bạn trong đơn vị tác chiến, tôi và anh có chung một suy nghĩ này. Cũng may trong nhiều trận đánh khốc liệt đạn đã tránh anh nên anh còn lành lặn sau cuộc chiến. Có lần đơn vị dừng quân bên ngoài một thành phố nhỏ nghỉ dưỡng được ít ngày, thời gian đó các bạn tôi quây quần bên nhau uống rượu đàn hát. Nghiêm Đặng cũng có mặt, anh thích uống rượu vui văn nghệ thì làm sao mà bỏ lỡ cơ hội này. Anh uống rất nhiều nên đã ngà ngà say và nằm võng ngủ gần đó.
Riêng tôi vì không biết uống rượu nên chỉ ngồi chơi với anh em, hòa nhập vào không khí văn nghệ thưởng thức những tiếng đàn hát, tiếng cười nói thật vui nhộn. Đến qúa nửa khuya Alpha Ẩn tham gia, anh một cây văn nghệ, và là một đại đội trưởng thâm niên có nhiều huy chương chiến trận. Ẩn hát một bản nhạc tiền chiến nổi tiếng một thời, giai điệu thật dìu dặt, nhưng Alpha N Hữu Chung men đã thấm, chếch choáng đệm khôngđạt khiến nhạc phẩm mất một phần tinh hoa! Bỗng dưng tiếng anh Nghiêm Đặng gắt lên như xé âm thanh:
«Thôi xin ông đừng đàn nữa tôi điếc ráy rồi!»
Chúng tôi cứ ngỡ anh Nghiêm Đặng ngủ, nhưng anh vẫn còn thức nằm nghe các anh em đàn hát. Nghe anh hét Nguyễn H Chung đang chơi đàn bỗng nhiên xìu mặt, nó cũng là dân cựu Văn Khoa đã tốt nghiệp cử nhân, và là một đại đội trưởng gan dạ. Nó nửa đùa nửa thật nói :«Thôi cha! Anh biết đàn đâu mà dám chê tui ?.. Xin niên trưởng để chúng em yên!».
Cả nhóm cuời ồ lên và tiếp tục đàn hát. Không thấy anh Nghiêm Đặng trả lời, tôi nghĩ anh say, nhưng lại thấy anh ngồi dậy im lặng trên võng nghe hết bản nhạc, rồi đứng lên tiến đến tôi miệng nở nụ cười và chậm rãi nói:
«Cậu lấy cho tớ cây đàn .»
Tôi hơi ngạc nhiên, tưởng anh đùa vì quen biết anh đã lâu, ở Sài Gòn không hề thấy anh chơi đàn. Tôi hơi ngần ngừ nhưng vì nể anh tôi cũng mượn cây đàn của Chung đang chơi. Chung vì nể tôi nên đã trao đàn mà lòng không vui! Cả nhóm trố mắt nhìn anh ôm đàn, có lẽ họ nghĩ là anh Nghiêm Đặng đang muốn diễu? Tôi biết anh hát nhạc tiền chiến rất hay, và nghĩ anh ôm đàn làm dáng để hát góp vui. Nhìn cách ôm đàn và so lại dây hơi lâu mà không cần nhấn nhiều vào phím, sau đó lại xuống dây số 6 thành Rề, tôi giật mình, vì chỉ những nhạc sĩ có lỗ tai nhạy bén âm độ và đạt mức chuẩn âm mới lên dây đàn kiểu này.
Tôi ra dấu bảo các bạn im lặng. Nghiêm Đặng rít mạnh mẩu điếu Basto xanh dính trên môi một hơi, và trịnh trọng vào nhạc. Những ngón tay của anh như đoàn vũ ballet lướt trên cung bậc diễn tả bản Capricho Arabe của danh sư Francisco Tarrega một cách tài tình, đây là một bản nhạc khó, kỹ thuật cao của guitare trong dòng nhạc cổ điển Tây Phương.
Nghiêm Đặng chơi tiếp một số bản khác. Hay quá, một sự việc không thể ngờ được! Rất tiếc các ngón tay của anh vẫn chưa mềm để có thể diễn tả đến mức tuyệt vời những bản nhạc đầy kỹ thuật của dòng nhạc cổ điển Tây Phương, đáng lẽ anh cần phải để các ngón tay quen dần dạo qua một số bài đơn giản trước khi chơi bản Capricho Arabe của F. Tarraga! Có lẽ do lâu ngày không cầm đàn, nay cầm lại khiến anh hứng quá và chơi liên tục chứ anh không có ý định khoe hay biểu diễn.
Các bạn không ai bảo ai giữ im lặng, đêm khuya chỉ còn tiếng đàn dẫn người nghe vào một thế giới riêng thật huyền ảo của âm nhạc. Tiếng đàn đang réo rắc bỗng ngưng lại, anh đặt đàn xuống rồi rút trong túi ra gói thuốc Basto xanh, anh rút một điếu, se se nhẹ hai ngón tay vào điếu, rồi chậm rãi gõ điếu thuốc vào lưng bàn tay trái, sau đó gắn lên môi rồi móc trong túi lấy chiếc bật lửa Zippo mồi thuốc. Cử chỉ của anh chậm chạp làm chúng tôi sốt ruột!
Anh rít mạnh một hơi rồi tiếp tục ôm đàn dạo tiếp đoạn nhạc cổ điển, rồi chuyển sang nhạc Việt, những nhạc phẩm nổi tiếng mang tính nghệ thuật cao của một số nhạc sĩ tiền chiến và đương thời, đã được các nhạc sĩ tài danh về guitare soạn hòa âm guitare. Cứ như thế chúng tôi thay nhau mồi thuốc khi điếu thuốc của anh sắp tàn để dòng nhạc được liên tục cho đến 3 giờ sáng mới chấm dứt. Về sau tôi hỏi anh tại sao chơi đàn giỏi thế mà dấu, anh cười buồn trả lời:
« Cũng tại mê đàn tớ mới mất mối tình đầu, và sống độc thân đến nay gần 40 mà chưa vợ !»
Tôi tôn trọng chuyện riêng của anh nên không hỏi gì thêm. Sau biến cố tháng tư năm 75, tôi từ Tổng y viện Cộng Hòa ra và đi tù. Gặp lại anh Nghiêm Đặng trong tù anh em chúng tôi mừng rỡ, tôi trông anh rất hốc hác do thiếu ăn mà phải lao động nhiều, nhưng phong cách vẫn nghệ sĩ. Còn anh, lại ái ngại cho tình trạng sức khỏe của tôi đang chống cặp nạng! Anh khoe với tôi đang cho một con chim sẻ ăn cơm. Tôi cười hỏi :
«Ở tù cơm không có mà ăn, anh nuôi chim lấy đâu cho nó ăn ?!»
Anh cười :
« Nhín một chút sẽ có hạt cơm cho nó ăn ngay, hơn nữa nó ăn được cả bo bo !»
Tôi bảo :
« Đã ở tù rồi anh lại nuôi nó chẳng khác nào anh nhốt tù nó ?»
Anh Nghiêm Đặng :
«Cậu không hiểu, ở đây làm bạn với chim vui hơn người; mình thích nó hơn. Còn ở đất nước mình chỗ đếch nào mà chẳng là nhà tù, mình có nhốt nó đâu ?»
Tôi và anh ở chung không lâu thì bị biên chế trong đợt ra Bắc lần đầu. Tôi nằm trong danh sách nhưng vì những vết thương cũ của tôi bị nhiễm trùng nên được nằm điều trị bệnh xá trại, ở bệnh xá có nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, Đại tá Đông cũng bị hoãn đưa ra Bắc vì bệnh nặng. Họ xếp tôi vào loại là bệnh mãn tính nên không có thuốc chữa, do đó tôi phải rời viện trở về lán lao động. Về trại, các bạn bảo tôi trông giống bộ xương khô biết đi!
Lần đó các bạn tưởng tôi chắc «đứt»,nhưng tôi vẫn sống, vẫn lết từ trại nầy sang trại tù khác dù sức khỏe càng ngày càng tệ. Ngày tháng gian khổ cũng dần trôi, tôi bị chuyển đến đâu các bạn thấy cũng thương nên đã lãnh thế những công tác lao động nặng như vào rừng cưa cây, đập đá núi làm đường,... anh em để tôi làm những việc nhẹ ở lán.
Có lần tôi và người bạn được giao đi lãnh cơm, tôi không còn đi bằng cặp nạng vì vết thương đã tạm lành, nhưng con mắt bị nhiễm trùng lại trở nặng gần như mù vì không được thuốc chữa! Còn người bạn tôi, anh ấy phải đi bằng chiếc chân gỗ, anh là một người can đảm, anh hùng trong chiến trường đã hoàn tất nhiệm vụ giành chiến thắng, và đã để lại đó một phần thịt xương nơi ngọn núi 1062, cùng với bao chiến hữu khác nằm yên nghỉ muôn đời nơi chiến trường Thường Đức năm xưa!
Mới ngày nào khi rời ghế đại học tâm hồn chúng tôi đầy mơ mộng, đầy hoài bão về một tương lai rộng mở. Thế nhưng chiến tranh càng nặng độ, đất nước cần thanh niên bảo vệ sự tự do cho tổ quốc đang bị lâm nguy, tiếng gọi quê hương đã thúc dục chúng tôi lên đường nhập ngũ. Tiếp nối truyền thống hào hùng chúng tôi tình nguyện ở những đơn vị tác chiến, hiên ngang xông pha trận mạc.
Thế sự thay đổi, hôm nay hai chúng tôi làm kiếp tù nhân đang khiêng thau cơm nặng cho các bạn tù khác ở lán. Cái thau đựng cơm được gò bằng tôn chế biến lại, trông nó có vẻ to tưởng đựng được nhiều, nhưng đến khi chia ra cho mỗi người cũng chỉ được lưng chén! Khi đoàn tù lao động trở về chưa đến lán, thấy thau cơm các bạn đã reo lên….Người bạn khiêng phía trước chẳng biết vì xúc động bởi những tiếng reo hay vì đường trơn ướt, chiếc chân gỗ chịu quá nặng, nên bước lệch đã khiến hai người té sấp xuốngđường. Trong đoàn tù có những tiếng rú lên mà thanh âm nghe não nuột :
-Trời ơi ! Cơm đổ rồi!
Tôi nghe mà rụng rời! Như tiếng sét kinh hoàng bên tai, tiếng chân người chạy đến nghe xôn xao làm lòng tôi đau nhói! Sự áy náy đã tắc trách nhiệm vụ được các bạn thương giao phó làm tôi chết lặng!Tôi cảm giác những tiếng chân người thật chậm đang dẫm vào hồn tôi! Tôi cảm thấy không gian hoàn toàn im lặng, sự im lặng khủng khiếp nhường chỗ cho âm thanh lảnh lót: Đổ cơm rồi!
Chẳng một tiếng xót thương cho hai kẻ bị té xấp, có lẽ chẳng ai còn đủ hơi sức để kêu thành tiếng ; ngoài sự ám ảnh của cơn đói vọng lên âm thanh từ trong vô thức :«Đổ cơm rồi» ?! Phải chăng khi con người trong cơn đói lả thì miếng ăn đã ám ảnh tình đồng loại cũng mờ nhạt ?!
Những khoảng khắc giao động của cảm xúc lắng xuống, một số bạn tù ùa nhau chạy lại, kẻ thì đỡ tôi, người thì vực N H Quý, người bạn gốc Nhảy Dù, một số khác xúm nhau nhặt từng hột cơm văng xuống dưới rãnh hiên lán, như tìm vàng, tìm ngọc, rồi đem rửa từng hạt cơm như đãi cát tìm vàng. Mặc dù không trông thấy rõ nhưng tôi vẫn cảm nhận được cơn đói hằn trên khuôn mặt anh em, khiến lòng tôi tuôn trào như cơn mưa chiều đang giăng mờ mắt!
Dù trong tình trạng vết thương cũ chưa lành hẳn, tôi không chịu làm việc nhẹ nữa. Kể từ hôm đó tôi cùng anh em vào rừng cưa cây, tôi còn quyết định để một nửa phần cơm chiều của mình dành cho bữa cháo sáng. Tôi nghĩ: "Đây cũng là cách chuộc lỗi đã tắc trách làm đổ thau cơm của anh em". Bạn cùng tổ lúc đầu còn áy náy khi thấy tôi nhịn bớt phần cơm mình để có phần cháo sáng, nhưng dần dần thành quen, không còn ai thắc mắc. Tình trạng thiếu ăn ở trong tù ngày càng trầm trọng! Hạt cơm trong tù qúy và hiếm lắm! Ai đã từng trải qua cơn đói lả mới thấy giá trị của miếng ăn!
Cơn đói đã trở nên gối đầu, nghĩa là ăn bữa nay mà cái đói nó dồn từ vài bữa trước. Nhiều buổi chiều lao động về đói quá tôi đã ăn hết phần cơm để dành dể nấu cháo. Sáng ra vài bằng hữu không thấy cháo đâm nổi quạu! Tôi ngạc nhiên và tự hỏi tại sao lại nổi quạu ? Và chợt nghĩ :"Hình như các bạn ấy ngỡ bổn phận của tôi là phải có cháo sáng cho họ ăn…Thế mới biết một việc được lập đi lập lại nhiều lần dù ở trong tù hay bất cứ ở nơi đâu cũng thành thói quen !”
Tôi bùi ngùi thở dài, trong lòng vừa có chút xót xa vừa cảm thấy ưng ức! Rồi lại nghĩ:
" Mình thì bệnh tật, lại thường hay phát biểu bị quy là chống đối, và bị kỷ luật, có lẽ mình sẽ bỏ xác trong tù ! Mình có ăn thêm một chút thì cũng chỉ kéo dài sự sống, thêm chuỗi ngày đau khổ,nhưng nhín chút cháo sáng lại là chút niềm vui nhỏ mỗi ngày…cũng ấm lòng cho ít bạn bè".
Tôi lại tiếp tục nhịn, nhịn riết rồi cũng quen. Niềm vui nhỏ đó thoáng nhanh, chỉ một thời gian không lâu chúng tôi lại bị biên chế, nhóm bạn ấy và tôi bị phân tán đi khắp nơi. Sau này ở hải ngoại gặp lại một số bạn tù, các bạn kể trong số những người bạn cũ, có ngưòi đã chết vì bệnh, người thì kiệt sức ngủ yên nơi góc rừng khe núi. Nghe kể lòng tôi xót xa! Các bạn tôi và tôi chẳng còn ai thèm những hạt cơm rơi nữa, nhưng tôi vẫn nhớ hạt cơm rơi trong chiều mưa.Tôi có gặp lại Nguyễn H. Chung,nhưng anh Nghiêm.Đặng thì không!
Paris đã vào mùa xuân nhưng tiết trời còn lạnh, chiều nay ngồi trong căn phòng ấm nhìn những hạt mưa rơi lòng tôi chợt cảm thấy buồn! Cơn mưa chiều đã gợi nhớ những hình ảnh những người bạn năm xưa ; mà nay có người còn kẻ mất! Những kỷ niệm vui buồn của một thời khói lửa, và những năm tháng ngậm ngùi sau cuộc chiến về thân phận con người!
Nhện giăng chi sợi tơ chùng Để xuân héo hắt lạnh lùng vườn hoang Dệt chi vuông lụa úa vàng Để khung cửi lệch mộng tàn áo hoa Một đêm óng ả vội qua Trọn đời rối chỉ gỡ ra mối nào?
世事漫隨流水, Thế sự mạn tùy lưu thủy,
算來一夢浮生。 Toán lai nhất mộng phù sinh.
醉鄉路穩宜頻到 Túy hương lộ ổn nghi tần đáo,
此外不堪行。 Thử ngoại bất kham hành.
李煜 Lý Dục ***
Chú Thích:
1- Ô Dạ Đề 烏夜啼: tên từ điệu, còn gọi là Tương kiến hoan 相見歡, gồm 47 chữ, 2 đoạn, mỗi đoạn 4 câu có 2 bình vận.
2- Kiêm 兼:cùng có, còn có.
3- Liêm vi 帘幃: Rèm và Trướng màn. Liêm帘: rèm làm bằng vải, trúc...Vi 幃 = duy 帷, mạn mạc 幔幕: màn làm bằng lụa vải, che ngăn trong nhà, lều.
4- Táp táp 颯颯: tiếng gió thổi qua trướng màn.
5- Chúc tàn 燭殘:nến cháy sắp hết.
6- Lậu 漏: = lậu hồ 漏壺: cái đồng hồ thời xưa. Lậu đoạn 漏斷:nước ở trong đồng hồ đã hết.
7- Tần 频:thường thường, tần phồn 频繁: nhiều lần.
8- Y 欹 theo nghĩa cổ = khi 攲: khuynh tà 倾斜 nghiêng lệch (Hán Điển); Y chẩm 欹枕: nghiêng đầu dựa vào gối.
9- Bình平:bình tĩnh 平静.
10- Thế sự 世事: việc đời, việc xảy ra trên đời.
11- Mạn 漫:uổng phí.
12- Phù 浮: trôi nổi. Phù sinh 浮生 : đời người ngắn ngủi, giả tạm.
13- Túy hương 醉鄉: trạng thái của người say rượu.
14- Ổn 穩:ổn định.
15- Nghi 宜: nên.
16- Bất kham hành 不堪行: không làm gì được.
Dịch Nghĩa:
Đêm qua gió và mưa,
Gió thu thổi nghe táp táp vào trướng rèm.
Nến tàn, đồng hồ đã hết nhiều lần dựa gối.
Đứng ngồi tinh thần không ổn định.
Việc đời theo dòng nước trôi đi uổng phí.
Tính ra là một giấc mộng đời giả tạm.
Trong khi say thì con đường bình ổn, nên đến nhiều lần.
Ngoài ra thì không làm được gì cả.
Dịch Thơ:
Đêm Qua Mưa Gió
Đêm qua mưa gió nổi,
Rèm trướng gió thu thổi.
Đồng hồ cạn nến tàn,
Quanh quẩn dựa bên gối.
Ngồi đứng buồn khôn nguôi,
Việc đời theo nước xuôi.
Phù sinh một giấc mộng,
Giả tạm cơn mê đời.
Ổn định trong cơn say,
Nên thường xuyên đến đây.
Ngoài ra không lối thoát,
Phiền muộn trên đời này.
HHD
8-2018 *** Gió Mưa Đêm Trước
1- Đêm qua mưa gió nổi Trướng rèm thu thổi sạt sào Hồ cạn nến tàn dựa bên gối Đứng ngồi dạ nghiêng chao
Đời xuôi theo dòng nước Tính gồm một giấc nổi trôi Say sưa đường ổn, thường thăm viếng Ngoài ra lối chặn rồi!!
2- Đêm qua mưa gió nổi giông Màn che rên rỉ thu phong lén vào Giờ tàn nến lụn gối đầy Đứng ngồi bất ổn nghiêng chao tâm tình
Chuyện đời nước chảy lục bình Tính ra một giấc phù sinh nhẹ nhàng Say sưa đường phố thênh thang Cớ sao kiếm chỗ đoạn tràng mà đi!?
Lộc Bắc
Aug2018
***
Phỏng Dịch:
Mưa Gió Đêm Qua Gió mưa giông tố đêm qua Tiếng thu xào xạc phong ba ngoài rèm Nến tàn trăn trở thâu đêm Đứng ngồi nao dạ chẳng yên tấc lòng
Sự đời theo nước xuôi dòng Tính ra chỉ giấc mộng trong kiếp người Hãy về làng cũ an ngơi Bỏ buông danh vọng xa nơi thị thành Kim Oanh
Melbourne2018