Có những tình yêu trọn đời tạc mãi Thương nước Việt Nam một dải non sông Yêu người chiến binh khắc cốt ghi lòng Tình hậu phương một dòng sông luân chảy Nỗi buồn tháng Tư muôn đời khắc khoải Biết bao giờ quên được tháng ngày đau Nhớ quê hương xót dạ luống nghẹn ngào Nơi đất khách gầy hao nhìn ngoái lại Kim Oanh
(Xin được gửi tới các anh chiến sĩ đã hy sinh một lòng cảm tạ vô bờ bến!)
Thà chọn chết hiển vinh hơn sống nhục Chí kiêu hùng không khuất phục bọ hung Sống vì dân cho đến phút sau cùng Đền nợ nước gương thơm lừng bất diệt .....
Những ngọn đuốc hy sinh đầy oanh liệt Sáng mọi miền đất Lạc Việt - Âu Cơ Bỏ tình riêng theo tiếng gọi tôn thờ Lòng tráng liệt gương cao Cờ Chính Nghĩa .....
Làm tướng sĩ dẫu thân phơi trận địa
Đấng anh hùng hướng về phía vinh quang Phút linh thiêng tuẫn tiết chẳng chịu hàng Máu dù đổ vẫn hiên ngang sĩ khí .....
Cao nghĩa cả ngời oai linh dũng trí Áo chiến y nhuộm thắm chí lừng uy Phận quân nhân tận tụy dưới quân kỳ Thân lính trận ngại xá chi tử biệt .....
Anh ngồi đó giữa dòng đời xuôi ngược, Tháng Tư đen kẻ trước với người sau, Mang trên vai trách nhiệm với đồng bào Nay chịu nhục tủi hờn trong uất hận. Anh ngồi đó tâm tư người lính trận, Áo hoa dù mãi mãi vẫn oai phong, Lời thề chung " cố gắng " nguyện trong lòng. Luôn quyết giữ tinh thần màu Mũ Đỏ. Anh ngồi đó lòng hẹn lòng rất rõ, Chút nữa đây cùng bè bạn chung tay. Vai sát vai chia sẻ nỗi chua cay, Tình chiến hữu muôn đời không ly biệt. Anh ngồi đó thân trai nòi giống Việt Chí tang bồng oai dũng viết sử xanh Áo Thiên Thần Mũ Đỏ mãi lừng danh Dòng chính sử luôn ghi trang hào kiệt.
Cảm tác bộ ảnh Mừng Chúa Phục Sinh - Thánh Đường Holyname 2023 Con đứng đây bên Người vừa sống lại Sau lần chết thay cho nhân loại khổ đau Sự hy sinh đã làm con nhớ mãi Mở lòng yêu thương đến tất cả đồng bào
Mười năm, còn lại gì đâu ? Soi gương, mái tóc pha màu tuyết sương Mười năm, giã biệt chiến trường Bước chân lữ thứ trên đường tìm quên Mười năm, mộng vẫn không đền
Ta trôi nổi giữa oan khiên cuộc đời Mười năm, một thuở xa người Tha phương cách mấy trùng khơi, không về Mười năm, là một cơn mê Cho ta đứng ở bên lề hôm nay Nguyễn Kinh Bắc Phú Nhuận 1985 *** Bài Họa:
Bao Năm… Bao năm chẳng thể phai đâu Dù cho mái tóc bạc màu điểm sương Khối tình nhiệt huyết can trường Bút nghiên gác lại lên đường sao quên Hy sinh tuổi trẻ đáp đền Vì dân vì nước thiêng liêng dâng đời Bao năm mãi nhớ ơn người Anh hùng tử sĩ ngàn khơi thác về Dù đang lạc giữa bến mê Hiên ngang sống giữ lấy lề xưa nay.
Con đường thương khó Chúa qua Vượt bao khổ nạn bao la tình Ngài Máu đào thấm đỏ đôi tay Đớn đau gánh chịu đắng cay cực hình Con dân nước chúa nhiệt tình Rao truyền công cuộc hiển vinh của Người Tạ ơn tình Chúa cao vời Xót thương cứu độ rạng ngời vinh quang Phục Sinh ánh sáng huy hoàng Chiếu soi nhân loại hân hoan danh Ngài!
Mùa xuân 2023. Ngoài chuyện nhớ lại mùa xuân cách nay 48 năm với “Tháng Ba Gãy Súng” (1) và “Tháng Tư Mất Nước” (2) tôi còn nhớ đến nhiều chuyện khác nữa, nhớ nơi tôi sinh ra, nhớ nơi tôi lớn lên và học hành, nhớ nơi tôi từng công tác, nhớ Sài Gòn, nhớ Đà Lạt, nhớ Nha Trang, nhớ Cần Thơ, nhớ An Giang, nhớ đèo Hải Vân, nhớ sông Vàm Cỏ…và nhớ nhớ nhiều lắm. Nằm trong bộ nhớ của tôi còn có rất nhiều người bạn – bạn thân – bạn rất thân nữa. Một người bạn rất thân là Nguyễn Đức Quang, cùng xứ, cùng trường, cùng chơi Hướng Đạo, cùng hát Du Ca…và cùng có máu giang hồ của một thời đi cùng khắp trên quê hương Miền Nam Việt Nam…
Nguyễn Đức Quang, thường được gọi là Quang Du Ca để phân biệt với Quang Già Cơ cùng khóa I Chính Trị Kinh Doanh Dalat. Quang Du Ca sinh năm 1944 và mất năm 2011 vào cuối tháng ba, ngày 27. Nay là lần giỗ thứ 12 của Quang Du Ca. Tôi nhớ đến Quang vì chúng tôi có nhiều gắn bó từ những ngày mới lớn ở thành phố Dalat cho mãi về sau này. Khi Quang Du Ca ra đi, một nhóm thân hữu có thực hiện một tuyển tập mang tựa đề: “Tưởng Niệm Người Du Ca Muôn Thuở” gồm những bài viết về Quang Du Ca của hơn 20 tác giả trong đó tôi có đóng góp bốn bài văn và hai bài thơ kể lại những kỷ niệm của hai chúng tôi trong suốt thời gian ở Dalat cho lúc sinh hoạt tại thủ đô Sài Gòn, từ lúc chơi Hướng Đạo cho đến lúc thành lập Phong Trào Du Ca.
Hôm nay tôi xem lại tuyển tập “Tưởng Niệm Người Du Ca Muôn Thuở” để đọc lại các bài viết của các tác giả về Quang Du Ca như là – giây phút để nhớ đến một người bạn, một người em kết nghĩa.
Trang 21 anh Hoàng Ngọc Tuệ, hiện là chủ tịch Phong Trào Du Ca Việt Nam viết:
“…Cho đến tận bây giờ (2011), 45 năm sau, tài năng ấy cũng đã làm triển nở nhiều tài năng sáng chói khác để đóng góp cho tương lai đầy hứa hẹn của một Phong Trào Du Ca thời đại mới”.
Trang 30 Hoàng Thái Lĩnh có đoạn:
“…Là con chim đầu đàn của Phong Trào Du Ca, Nguyễn Đức Quang đã để lại cho chúng ta một di sản âm nhạc phong phú thuộc nhiều thể loại, từ tình ca cho đến các bài hát sinh hoạt cộng đồng, nhưng đáng chú ý nhất là những bài hát “nhận thức” – chất chứa tình tự dân tộc, lòng yêu quê hương, những suy tư của người dân một nước nhược tiểu muốn vươn lên để làm thay đổi số phận của dân tộc mình…
Trang 35 nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng ghi:
“Cho dù các ca khúc của Nguyễn Đức Quang được viết cách đây hơn 30 năm ở trong nước, âm nhạc của anh mỗi khi vang lên bao giờ cũng thổi đến trong lòng người nghe hơi nóng của một trái tim bốc lửa. Tuổi trẻ, đó là hơi thở trong toàn bộ những sáng tác của anh. Và quê hương là hình ảnh đẹp đẽ trong tiếng nói của anh. Các ca khúc Nguyễn Đức Quang có thể nói tràn ngập những lời tình tự dân tộc…”
Trang 121 Trần Trọng Thảo đã viết:
“Quang thường suy nghĩ và sáng tác rất nhanh. Hình như trời đã phú cho Quang một ngăn âm nhạc có sẵn trong đầu, khi cần chỉ lôi nó ra và sắp xếp lại... Mỗi khi đã ôm đàn lên là thành ca khúc. Lúc đó anh em Trầm Ca mới ngồi lại để nhận xét, mổ xẻ bài hát...Những lúc không vừa ý với những nhận xét, cậu ta chỉ nhe răng ra cười khì. Cũng từ đó, các ca khúc dù cũ hay mới sáng tác của Quang, sau mỗi lần đi trình diễn về, anh em lại thức thâu đêm trong căn phòng nhỏ, kẻ ngồi, người nằm...ồn ào mổ xẻ, phân tích từ lời ca đến tiếng hát: Đó là tiếng nói chung của Trầm Ca...
Trang 141 có đoạn Nguyễn Quang Tuyến viết:
“Tôi đưa Quang đến thăm trường trung học Trần Hưng Đạo, nơi đây 50 năm xưa chúng tôi cùng ngồi học một mái trường; mọi sự đã đổi thay nhiều. Người ta không muốn và không cho phép giữ một chút gì của quá khứ, làm như rằng người ta hiện hữu và có mặt mà chẳng cần chút gì của quá khứ. Cũng rừng thông cũ, cũng lối đi xưa, cũng gò đồi cao thấp, nhưng “ngõ cũ lâu đài” giờ đây tê tái trong câm nín, yên ắng đến lạnh người. Đâu rồi những Thầy xưa? Cô giáo cũ? Bạn bè ngày nào? Quang ngậm ngùi ‘sóng sau xô sóng trước, bãi bể nương dâu...cậu Tuyến có cố giữ ba chữ THĐ bên bệ hàng rào cũng chỉ là một chút lay lắt khói sương’. Ừ nhỉ, thật cũng là một chút lay lắt khói sương giữa trời hoang nắng bàng bạc hoàng hôn Đà Lạt...”
“Thế hệ thanh niên lớn lên ở các thành phố Miền Nam Việt Nam trong thập niên 1960 đều chia xẻ tâm trạng ‘thân nhược tiểu’này. Một dân tộc vừa giành được độc lập đã bị cắt đôi, kẹp giữa hai khối tư bản và cộng sản. Và đang được hai khối đó đưa cho khí giới giết lẫn nhau, nhân danh những chủ nghĩa, những thiên đường! Trong khung cảnh đó có hai phản ứng khác nhau. Nhiều người chỉ thở than, tuyệt vọng hoặc tìm lãng quên. Nguyễn Đức Quang có một tâm hồn tích cực, vẫn tìm thấy con đường sống lạc quan, yêu đời. Một phần có thể vì từ thuở nhỏ Quang đã thuộc điều luật thứ 8 ‘Hướng Đạo Sinh gặp nỗi khó khăn vẫn vui tươi’. Nhưng không phải chỉ có thế. Toàn thể con người Nguyễn Đức Quang ngập đầy sức sống, không còn chỗ nào cho những tình cảm tiêu cực chen vào...”
Ở trang 195 nhà thơ Trần Văn Lương có 8 câu:
“Được tin anh giũ sạch trần sa
Biết trước, nhưng sao mắt vẫn nhòa
Ngạo Nghễ Quê Hương còn đứng đó
Âm thần cát bụi đã bay xa
Lòng son một mảnh luôn sừng sững
Nhạc cũ muôn đời mãi thiết tha
Lặng lẽ anh qua miền vĩnh cửu
Đất người mòn mỏi khúc
Du Ca
Nhà văn Hoàng Khởi Phong viết đoạn cuối bài của anh ở trang 142 rằng:
“Bạn tôi Nguyễn Đức Quang hôm nay nằm xuống, ngủ một giấc thiên thu. Anh không còn hiện diện với chúng ta, không còn cười đùa, trửng giỡn với chúng ta. Nhưng tâm hồn anh, tiếng hát của anh, lời ca của anh, tác phẩm của anh còn sống mãi với chúng ta, với cuộc đời. Đúng vậy, hơn lúc nào hết khi mà cuộc đời còn quá nhiều khiếm khuyết, quá nhiều bất công, quá nhiều cay đắng thì tiếng hát của anh vẫn vang lên từ hải đảo, nơi thời niên thiếu anh theo thân phụ ra làm việc ở nơi đây. Tiếng hát của thời niên thiếu đó vang lên to hơn nơi núi đồi Đà Lạt, to hơn nữa trong các quân trường. Dường như tiếng hát đó đang vang lên trong căn phòng này...”.
Nguyễn Đức Quang Già Cơ ở trang 391 nói về “Tình Quê Hương” của Nguyễn Đức Quang Du Ca như sau:
“Quang đã thể hiện mối tình bằng lời nói, việc làm ngay từ lúc anh còn là một thiếu sinh cho đến ngày nay và có lẽ cho đến lúc hắn nhắm mắt. Quang thể hiện mối tình này với con tim nồng cháy và bất vụ lợi. Điều này rõ ràng, chắc không ai phủ nhận, bài bác được. Ngày nay mọi người ai cũng nói như tôi Nguyễn Đức Quang là người đã có công với đất nước vì đã sáng lập ra Phong Trào Du Ca. Anh ta là một người yêu nước...”
Bùi Ngọc Nga ở trang 272 viết:
“Nhóm chủ lực của trại Suối Thông gồm anh Nguyễn Đức Quang, Hoàng Thái Lĩnh, Hoàng Kim Châu, Trần Trọng Thảo, Nghiên Hữu Ý…đều là những Hướng Đạo Sinh tại Đà Lạt rất có kinh nghiệm đi trại công tác. Tôi và chị Khánh Tuyết là hai người nữ trong trại suốt thời gian lo việc ẩm thực cho toàn trại. Ban ngày các anh phụ trách công việc dựng nhà. Công việc rất nặng nhọc như vác tre, vác gỗ, trộn hồ, chuyển hồ, dựng vách, lợp mái…Tối về, sau bữa cơm chúng tôi quây quần bên nhau ca hát, trời lạnh và mưa, ngổi trong nhà sàn “cao cẳng” có khi đến một hai giờ sáng. Anh Quang đàn hát liên miên, chúng tôi hát những bài ca của trẻ em, của Hướng Đạo và những bài ca lịch sử…Kết thúc những ngày trại, anh em chúng tôi, mỗi người có một tên mới: K’ Quang, K’ Lĩnh, K’ Châu, K’ Tuyết, K’ Ý, K’ Nga…theo cách đặt tên của một giòng tộc người miền núi cao nguyên.
“…anh chàng này cỡ tuổi chúng tôi, nhìn mặt hơi ngố ngố, gầy gò, nước da trắng, có cái miệng vêu vêu ra phía trước…muốn xin gia nhập Hướng Đạo…”.
Trang 61 đoạn “Chèo Thuyền Qua Đảo Hoang” tôi viết:
“…Chúng tôi quyết định thả hai con ngựa cho chúng tìm đường chạy về Mang Linh và bắt đầu một trò chơi khác: chèo thuyền. Thấy một chiếc thuyền bềnh bồng ở mạn hồ, quan sát không thấy ai gần đó, chúng tôi bước xuống chiếc thuyền dài chừng hơn hai mét, rộng hơn một mét với một chiếc dầm chèo bên trong lòng thuyền. Bẻ thêm một nhánh cây làm dầm chèo, chúng tôi nhắm hướng bên kia hồ để chèo tới…
Trang 65 đoạn “Năm Anh Em” ghi rằng:
“…Chúng tôi, mỗi người tự viết tên, ngày tháng năm tháng sinh của mình vào một mảnh giấy rồi gấp lại. Sau đó mấy cô bạn tuần tự mở các mẫu giấy và đọc ngày tháng năm sinh của từng người để biết thứ tự ai huynh ai đệ. Kết quả thứ tự anh em như sau: Nguyễn Ngọc Phước (Akela Ngàn Thông), Hà Thái Trường (Akela Lê Lai), Đoàn Chiêm (Baloo Lê Lai), Hoàng Kim Châu (thiếu trưởng Lê Lợi), Nguyễn Đức Quang (Bagheera Ngàn Thông). Tôi và Quang có nhiều thời gian sinh hoạt chung lâu hơn ba Trưởng đàn anh. Anh Nguyễn Ngọc Phước đi Thủ Đức và tử trận năm 1966, anh Hà Thái Trường đi Thủ Đức và tử trận năm 1973…”. Mới đây anh Đoàn Chiêm cũng đã vĩnh viễn ra đi vào tháng 10 năm 2021 vì chích vaccine ngừa covid 19 nhản hiệu Trung quốc. Như vậy là năm anh em Hướng Đạo kết nghĩa, nay chỉ còn lại một mình tôi! Cũng cần ghi thêm ra đây là Ban Trầm Ca cũng là sáng lập viên Phong Trào Du Ca gồm năm người: Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Quốc Văn, Trần Trọng Thảo, Mai Thái Lĩnh (tức Hoàng Thái Lĩnh), Hoàng Kim Châu (khi về Sài Gòn có thêm Đỗ Phương Oanh) thì nay chỉ có ba người. Nguyễn Quốc Văn tử trận 1968, Quang ra đi 2011 vì bạo bệnh và mới đây Trần Trọng Thảo mất vào đầu tháng 12 – 2022. Còn tôi, Mai Thái Lĩnh ở Úc và Đỗ Phương Oanh ở Pháp.
Một mùa thu cũ vẫn đây Tìm trong nỗi nhớ đong đầy hương xưa Công viên lá đổ chợt vừa Gọi mùa vàng chín lòng chưa quên người... Thu Bright nét đẹp rạng ngời Dù bao năm vẫn trọn đời vấn vương Lòng say mê đắm lạ thường Lá ơi dẫn lối người thương trở về...
Kim Oanh *** Bài Họa:
Lối Xưa
Mùa Thu cũ đã ngồi đây Lá khô hương ngát tràn đầy lối xưa
Miên man nỗi nhớ như vừa
Gặp trong mộng ảo đón đưa một người Vàng Thu óng ánh sáng ngời Đẹp sao kỷ niệm một thời vấn vương Dù cho cuộc sống vô thường Lối xưa in dấu yêu thương lại về