Thứ Năm, 30 tháng 10, 2025

Đón Mùa Xuân Mới!

 
 ( Mùa xuân đón Ba)
Ba thương yêu ơi!

Mùa mới lại trở về trong khu vườn nhỏ, hoa muôn màu khoe sắc, chim hót líu lo.
Bên hàng hiên, có một ​"con bé​" ngồi nhâm nhi cà phê nhớ về ba của mươi năm trước. Đúng là với ba con cái lúc nào cũng bé bỏng phải không ba. Ba ơi, ba cùng con đón mùa Xuân mới nha ba.
Ngay cả cây hoa giấy của má tặng cũng đơm hoa tươi cười trong nắng sớm. để cùng ba vui với ngày mới đón xuân sang.
Con nhẹ lật trang ký ức, kỷ niệm lại ùa về.

Xuân đã về trên ngàn cây nội cỏ
Như tình yêu con bày tỏ cùng Ba
Vườn nhà xinh lắm nở rộ muôn hoa
Trang ký ức bao thiết tha trìu mến.

(Hoa Biện Lý - Quà của má cho con)

Hồi xưa khi ngày đầu con đi học, lớp vỡ lòng do thầy Suốt dạy, lớp học cũng là nơi nhà thầy ở, con đường đất đến nhà thầy nhộn nhịp học sinh. Ba má sắm cho con cái cặp đệm (đan bằng lát), chiếc nón xếp thật gọn để vào cặp, khi tan học trời nắng mới mở bung ra, vành rộng mát mẻ vô cùng.

Mới vào học đã có nhỏ bạn Bé Em, con của chú Ba Dẫn tiệm Tạp Hóa đối diện nhà. Bé Em rất thích con, nên thường lén lấy kẹo cho, con giấu đầy trong ngăn cặp. Một hôm má soạn cặp và thấy sao mà nhiều kẹo, má tra hỏi con, má bắt con trả lại và ba má quyết định không cho đến lớp nữa, chỉ trong một tuần ngắn ngủi.

Thế là từ đó Lớp vỡ lòng tại gia, thầy cô giáo chính là ba má của con.
Con học ở nhà cho đến lớp Ba mới xin vào trường Tiểu Học Giồng Ké.Ba là người đầu tiên đưa con vào lớp.
Biết học nhảy nửa chừng, ba má sợ con không theo kịp chúng bạn, nên dạy trình độ rất cao. Ba má ơi, nhờ vậy mà học lực xếp giỏi, con được thầy cô thương yêu, suốt những năm Tiểu học, thầy cô chọn con là người mang về nhà, Sổ Điểm, Sổ Điểm Danh, phấn viết bảng.. Con “oai”  quá phải không ba, con cám ơn “ thầy cô ba má “ của con nhiều lắm.

Trong lớp bạn bè thương, hai nhỏ bạn Đậm và Phấn từ ruộng ra học, ngày nào cũng mang cho con những trái Me Keo bùi bùi, trái Ô Môi thơm ngon. Lần này hết bị má bắt rồi, vì chúng con ăn sạch giờ ra chơi… con gái ba ranh mãnh quá phải không ba hihihi…

Xong hết năm tiểu học, con đậu và Đệ Thất trường Trung Học Tống Phước Hiệp. " chính má may từng chiếc áo dài, lần đầu mặc áo dài đi học, con run run xúc động không cài nổi nút áo. Tay má nâng niu cài từng nút áo cho con. Xong má vuốt ve từ vai xuống vạt áo, mỉm cười "con gái má như con chim bồ câu trắng vậy, ráng học nhen con". Nhớ hoài hình ảnh ấy, làm sao con quên được má phải không ba.

Năm 69 đậu vào Đệ Thất
Ngày tựu trường. Ôi ngây ngất lòng tôi!
Mặc áo dài sao lòng bối rối
Mẹ vui say, nút áo vội cài thay
Trong gió tà áo mới bay bay....

( Lớp Đệ Thất /8 - Kim Oanh đứng hàng đầu từ trái, mặc chiếc áo dài Má may)

Buổi tựu trường đầu tiên ấy, ba đèo xe đạp chở con đi học, con hỏi sao ba không chở con đi xe gắn máy. Ba bảo, có nhiều điều ba muốn căn dặn con. Đúng rồi đi xe đạp thời gian dài hơn. Cũng nhờ vậy con được ôm vòng eo ba, áp mặt vào lưng ba, ôi mùi thơm mồ hôi đặc biệt của ba.

Ba đèo xe nhỏ nhẹ dạy từng lời
Đôi tay nhỏ đẫm mồ hôi
Ôm eo ba tim reo… hồi hộp lạ
“ Con nhớ học chớ lo ra
Giỏi ngoan cuối năm Ba Má thưởng quà
Đừng theo bạn bè chọc phá
Tan Ba đón, Má ở nhà chờ nhe….”
"Dạ thưa Ba, con đã nghe!"

Bước vào trường, con phập phồng, hồi hộp, ngoái lại nhìn, ba vẫn đứng ở cổng cười vẫy vẫy tay, như truyền cho con sức mạnh và nghị lực để bước theo lối dẫn vào lớp, rợp bóng mát với những hàng cây Huỳnh Đàn, Phượng Vỹ. Con tự tin hơn và vui vẻ, rộn ràng bước đi trên con đường thêu hoa nắng.

Sân trường xanh màu ngăn nắp hàng cây
Xoay lại nhìn Ba vẫn đấy
Nhìn con cười tay vẫy vẫy… thương yêu
Bớt âu lo bớt sợ đi nhiều
Tự tin bước trên đường thêu hoa nắng.

Má còn kèm dạy tiếng Pháp cho con đến năm Đệ Ngũ, hết khả năng của má, thì ba là người kèm tiếng Pháp cho con đến năm Đệ Nhất. Ba đã cho con nên vóc nên hình và nắn nót con có một trí khôn để bước ra đời không nghi ngại.
Mỗi dịp hè, ba má khuyến khích cho con lên Sài Gòn trau dồi Sinh ngữ, nơi đó có đủ nhu cầu, trình độ cao hơn, tiến bộ hơn. 


Ba dẫn đưa con từng bước khởi đầu….Mọi khó khăn, mọi nghịch cảnh, cùng tình yêu thương vô bờ bến, ba má đã dẹp sạch những con đường đầy chông gai, sỏi đá… để bước chân con được ung dung, tâm yên lành vững tiến đến tương lai.

Con là con chim mới ra ràng, đã sống hồn nhiên trong chiếc lồng son êm ái…dù qua bao nhiêu giông bão vẫn đủ lớn chấp đôi cánh bay xa...vào khu vườn Đại Học đầy hoa thơm cỏ lạ... Một khung trời mới tươi sáng. Ôi đẹp sao!

Tình Cha nghĩa Mẹ đẹp sao
Mẹ thao thức hát ca dao canh tàn
Gian lao khổ nhọc Cha mang
Mong con hạnh phúc vô vàn giấc say!

Ba ơi, bao yêu thương, bao tâm tình con còn ghi khắc mãi không quên. hôm nay tưởng nhớ 28 năm ba rời xa con cháu, con lật từng trang... từng trang ký ức để kể cho con cháu nghe, cũng như nhắc nhỡ chính bản thân con. Con sẽ cố gắng sống sao cho đẹp lòng ba má và ….

Gom yêu thương con gói trọn tâm tình
Dâng tất cả đến hồn linh Ba má
Công dưỡng nuôi lòng con xin cảm tạ
Ân nghĩa dầy tấc dạ chẳng hề phai!

Con cảm ơn ba má đã cho con được làm con của ba má…trước cũng như sau và mãi mãi…. 

Thương yêu con gái 9 gửi về Ba

Lê Thị Kim Oanh
Melbourne 30.10.2025
Giỗ lần thứ 28 của Ba.

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Đôi Khi...

 

Đôi khi lòng ngỡ đã quên
Đôi khi buồn bỗng chênh vênh đinh sầu
Đôi khi ngỡ chạm đáy sâu
Đôi khi chìm đắm nỗi đau tình người
Đôi khi cố gắng gượng cười
Đôi khi lục lại đẹp ngời tuổi thơ
Đôi khi khép mắt làm ngơ
Đôi khi hình ảnh người mơ vẫn hoài...
Đôi khi lúc tỉnh lúc say
Đôi khi người ấy có hay... như mình?!

Kim Oanh

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2025

Hoa Tím - Chia Nửa…

 
(Ảnh: Như Mai)

Bài Xuớng:

Hoa Tim

Ngày vui hé nửa tim lòng
Nửa kia khép lại giấu buồn trong đêm
Hạ xanh trải nắng lụa mềm
Hoa tim nở rộ bên thềm đợi ai?
Đợi người… ngày tháng xa bay
Từ Xuân đến Hạ, Thu phai Đông tàn
Người đưa tay níu thời gian
Ta ngồi đếm lá mùa sang rơi buồn!

Yên Dạ Thảo
***
Bài Hoạ:

Chia Nửa…

Mùa vui rót mật vào lòng
Sao ai than thở khơi buồn vườn đêm
Tigon trong gió ru êm
Xuân thì thầm đến tựa thềm cùng ai
Hương xưa nắng Hạ thoảng bay
Chia nửa Thu nhớ chẳng phai úa tàn
Dù Đông bao phủ không gian
Xuân miền ký ức lại sang cạnh buồn.

Kim Oanh


Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

Sinh Hoạt Hướng Đạo Việt Nam Trước Năm 1975

Buổi chào cờ đầu năm với các đơn vị bạn và quân đội Hoa Kỳ.


Biến loạn thời cuộc như trường hợp quân đội đang làm chủ đất nước dưới thời Nguyễn Khánh năm 1964.

Kim Oanh Sưu Tầm

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

Trung Thu Tôi!

Tuổi thơ tôi!


Tết Trung Thu là lễ hội truyền thống lâu đời, trăng rằm tháng Tám tròn xoe, sáng soi khắp làng. Lũ trẻ lòng tràn đầy niềm vui, tụ năm tụ ba vót tre, quậy hồ, cắt giấy, chuẩn bị đèn cầy,  để hoàn thành chiếc lồng đèn rước lễ trong đêm. Đặc biệt mỗi đứa có một chiếc đèn khác nhau. Nhịp trống vang lên, từng đứa nối đuôi nhau cùng cất tiếng hát,  những bài ca nhi đồng.


Lễ hội tháng Tám trong Làng
Hát lên, nhịp trống rộn ràng niềm vui
Ánh trăng soi sáng bầu trời
Đèn lồng muôn sắc đẹp ngời tuổi thơ

Nhà nhà đều có chiếc đèn treo trước cửa, dù giàu hay nghèo cũng không thể thiếu. Người lớn chuẩn bị những chiếc bánh Trung Thu thơm ngon, cùng nhau quây quần kể chuyện. 

Thuở ấy Chú Cuội và chị Hằng luôn trong suy nghĩ non nớt, câu chuyện cổ tích bí ẩn và cứ mãi tìm tòi...tưởng tượng ...

Hạnh phúc ấy vẫn còn mãi trong tiềm thức của mỗi người, dù qua biết bao thay đổi với thời gian.


Tuổi mơ tôi!

Môt thời con gái mộng mơ. Tâm sự chẳng dám tỏ cùng ai, 
đêm đêm nhìn xuyên qua kẽ lá, chỉ có vầng trăng làm chứng, chỉ có trăng nghe được những lời tâm sự, kể lễ thiết tha... Làm như Trăng là người trong mộng vậỵ....


Kìa hãy lén xem! Trăng ngại rồi
Núp sau nhành lá trộm nhìn thôi
Lắng nghe rạo rực tim sai nhịp
Trăng có bồi hồi thở hộ tôi

Bao nhiêu thầm kín, bao nhiêu tâm tư trút cạn, chỉ mình trăng thấu tận ruột gan...chỉ có trăng ve vuốt vai gầy, được tựa đầu cho mộng đầy....bay cao.

Trăng ấp ủ ngoan dỗ giấc ngon
Chớ nên trằn trọc kẻo hao mòn
Tình tôi tạm trú đêm trăng nhé!
Gối tựa vai trăng.. mộng rất tròn

Thuở ấy chẳng còn bánh ngọt lồng đèn, mà sao ngọt ngào đến thế, đáng yêu đến thế! Ánh mắt ai xuyên suốt như ánh trăng, dịu êm, nồng nàn cho đêm khuya tròn giấc. Đêm tàn rồi chỉ còn lại trăng với tôi...

Canh đã tàn rồi trăng vẫn non
Bài hát trăng ru thắm cuộc đời
Khép mắt huyền mơ tình vời vợi
Quay quắt yêu rồi... trăng với tôi!

Rồi thời gian vụt qua mau, ngày tháng mơ mộng ấy cũng theo dòng đời trôi nổi... lạc về chốn mịt mờ trong ánh trăng  tan...


Tuổi muộn tôi!

Trăng thiếu phụ ai nhìn không ngơ ngẩn
Đường vào yêu lối dẫn có ai ngờ
Đêm nên thơ lá xanh tình hò hẹn
Thôi cứ vờ để trăng vẹn tiếng yêu

Trung thu nay chỉ là câu chuyện của ký ức, muộn màng, nhưng trăng vẫn như xưa, sáng soi, rực rỡ một góc trời, tiếng lòng tâm sự cùng trăng... nói hoài nói mãi... suốt đời chỉ có tri kỷ trăng thôi!

Trăng Thu ơi, đêm nay bên hiên nhà, trăng có bình yên, có mỉm cười, có thấy một bóng gầy... gầy mòn ngóng đợi ...đợi đến lúc trăng tan.... tan vào nỗi nhớ .... vật vờ ....tìm trăng!

Trăng xuyên suốt tận đáy tim
Thấu tình Nỗi Nhớ thệ nguyền cùng Trăng
Âu yếm đầu tựa vai nằm
Đêm dài bất tận.. thì thầm lời ru

Song ngoài dày đặc sương mù
Trăng thưa dần khuất …thiên thu ảo mờ
Nỗi Nhớ hụt hẫng tỉnh mơ
Ôm ghì hạnh phúc vật vờ ...tìm Trăng


Kim Oanh
Trung Thu 2025

Vỡ Tiếng Yêu - Thơ: Kim Oanh - Diễn Ngâm: Hương Nam - Thực Hiện: Kim Oanh


Thơ: Kim Oanh
Diễn Ngâm: Hương Nam
Thực Hiện: Kim Oanh

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

Khuê Oán - Cao Biền 閨怨 高駢

  


Cao Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里, tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cầm quân dưới triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).

Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.

Nguyên tác          Dịch âm

閨怨                     Khuê Oán


人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri,
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách,
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.

Chú giải

Hắc sơn: Tức giặc Hoàng Cân cuối thời Đông Hán, do Trương Ngưu Giác cầm đầu, quân sĩ có hàng trăm vạn.

Dịch nghĩa

Người đời vui buồn khó mà biết được!
Chồng dẹp xong giặc ở Núi Đen mới trở về.
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách bình định phương nam,
Tối ngày cứ thúc giục mau may xong áo trận.

Dịch thơ

Nỗi Oán Khuê Phòng

Trần thế buồn vui đoán được gì
Chàng vừa phá giặc Hắc Sơn về
Hôm nay lại hiến bình Nam kế
Áo trận giục em may lẹ đi!

Lời bàn 

Cao Biền thay lời vợ oán trách chồng lúc nào cũng để hết tâm trí vào việc đánh giặc và bỏ bê vợ hiền. Câu kết rất khéo, ngụ ý rằng: “(Cả năm vắng nhà), vừa phá xong giặc Hắc Sơn về; chàng (không màng giao hoan với em), chỉ giục em may gấp áo trận để (ngày mai đi) bình định phương Nam!”.

Bài thơ này độc đáo ở điểm: một võ tướng lừng danh tả nỗi lòng của vợ oán mình đã bỏ bê nàng.
Bài thơ còn tiềm ẩn một nỗi ân hận (như một bài thú tội ngoại tình) của một võ tướng với vợ hiền: “Chỉ có mình em chịu cành phòng không gối chiếc; ta, với quyền bính trong tay, vẫn có gái đẹp để vui vầy ngay tại chiến trường”.

Con Cò
***
 Khuê Oán, Cao Biền.

Phỏng the than vãn.
Trần thế vui buồn thật khó hay,
Núi Đen chàng dẹp mới về đây.
Bình Nam chiến lược nay dâng kế,
Áo trận đêm ngày giục giã may.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 14/2025.
***
Than Oán Khuê Phòng - Cao Biền

Thế sự vui buồn khó biết thay
Hắc Sơn chàng dẹp mới quay về
Nam chinh nay lại dâng mưu kế
Áo trận đêm ngày vội vã may.

Kim Oanh
***
Góp Ý Cho Bài Khuê Oán Của Cao Biền.

Theo Thi Viện, tiểu sử của Cao Biền quá sơ sài. Sau đây là tiểu sử chi tiết hơn một chút: Cao Biền, tự Thiên Lý, người U Châu, sinh năm 821, chết năm 887, được 66 tuổi. Biền là con nhà tướng, giỏi văn chương, nhưng cũng làm tướng giống như ông, cha (Hữu Thần Sách Đô Ngu Hầu của Thần Sách Quân).

Vì có công dẹp Đảng Hạng, được làm Thứ Sử Tần Châu.
Năm 863, làm An Nam Đô Hộ Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ.

Năm 865, vì có hiềm khích với Lý Duy Chu, bị xàm tấu, suýt bị tội. Nhưng vì đánh được Nam Chiếu, giết Đoàn Tù Thiên và Chu Đạo Cơ nên không mất chức.
Năm 866, Đường Ý Tông đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Tĩnh Hải Quân, cử Biền làm Tiết Độ Sứ.
Năm 868, về Trường An, làm Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư, Vận Châu Thứ Sử, Thiên Bình Tiết Độ Sứ.

Năm 874, bị sai đi đánh Tây Xuyên.
Năm 875, làm Tây Xuyên Tiết Độ Sứ.
Năm 876, đánh và dẹp yên nước Đại Lễ
Năm 878, làm Kinh Nam Tiết Độ Sứ, rồi làm Tiết Độ Sứ Trấn Hải và Hoài Nam.

Trong thời gian này, Cao Biền có góp sức đánh Hoàng Sào, nhưng không thành công, được cử làm Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ, coi về muối và sắt.

Vì có hiềm khích với Đường Hy Tông, Cao Biền cáo bệnh, không chịu đánh Hoàng Sào.
Năm 882, được phong làm Thị Trung, nhưng mất chức Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ.

Trong nhiều năm, Cao Biền chỉ lo tranh chấp quyền lực với Lã Dụng Chi, Tất Sư Đạc, Tần Ngạn, đánh nhau lung tung. Đến năm 887, Tần Ngạn sai người tới giết Cao Biền và toàn gia.

Nhìn tiểu sử Cao Biền, mình mới hiểu là Cao lo chiến trận, công danh, không còn thì giờ cho vợ nên trong lòng có chút hối hận, mà làm bài Khuê Oán, thay vợ tỏ nỗi lòng của nàng.

Cao Biền là người có rất nhiều huyền thoại ở Việt Nam, như chôn đậu thành binh sĩ, cưỡi diều đi coi địa lý, trấn yểm hay phá các long mạch của mình..

Năm 866, Biền làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, trực tiếp cai trị Việt Nam.
Lý Nguyên Hy đã đắp La Thành, nhưng nhỏ và không kiên cố. Cao Biền đắp Đại La Thành năm 866, rất rộng lớn, phong Long Đỗ làm thành hoàng.
Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô về đây, vì thấy rồng bay lên nên đổi tên là Thăng Long, vẫn giữ Long Đỗ làm thành hoàng, phong Cao Biền làm Cao Vương.

Trong đền Bạch Mã ở Hà Nội, bên cạnh tượng Long Đỗ, có tượng một người cưỡi ngựa trắng, người ta cho đó là Cao Biền.

Bài thơ ngắn, dễ hiểu, không có chữ khó. Hắc Sơn, ÔC theo Thi Viện, nói rằng chỉ giặc khăn vàng, cuối đời Hán. BS không biết nên phải chấp nhận, nhưng có 2 Hắc Sơn, một ở Tân Cương, phía Tây Bắc của Tầu, là nơi đánh nhau với Hung Nô, mà Trần Đào nhắc đến trong bài Lũng Tây Hành kỳ 4.

Hắc Sơn chỉ khăn vàng chắc ở Trực Lệ (Sơn Đông?). Người lập ra giặc khăn vàng là Trương Giác, không phải Trương Ngưu Giác như Thi Viện và ÔC. Ngưu Giác chỉ là một đầu mục của Trương Giác.

Đây là bài dịch của BS :

Khuê Oán Của Cao Biền.

Nhân thế vui buồn khó biết thay,
Hắc Sơn dẹp giặc mới về đây,
Hôm nay dâng kế bình nam nữa,
Áo trận tối ngày thúc dục may.

Bát Sách.
(Ngày 15/06/2025)
***

Nguyên tác: Phiên âm:

閨怨-高駢 Khuê Oán - Cao Biền

人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y

Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句 -宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Cao Biền: danh tướng nhà Đường, có thời làm đô hộ An Nam. Xem thêm Cao Biền – Wikipedia tiếng Việt

Khuê oán: than vãn của người phụ nữ sống cô đơn, lo lắng, bực bội...
Nhân thế: thế giới loài người, cuộc sống
Bi hoan: vui buồn, đề cập đến tất cả các loại cảm xúc của con người
Hắc Sơn: địa danh, nay là ở Cẩm Châu 錦州, Liêu Ninh. Đây là vùng nông dân nổi dậy chống nhà Hán năm 184 do Trương Ngưu Giốc 張牛角 thống lãnh, còn được gọi là loạn Hoàng Cân 黃巾之亂 hay giặc Khăn Vàng.
Chinh Nam: chiến tranh chinh phục miền nam Trung Hoa, có thể liên quan đến trấn an và cai trị An Nam
Tảo vãn: sáng tối, sớm muộn
Hiệu y: áo quần của binh sĩ, một bộ đồng phục được đánh số

Dịch nghĩa:

Khuê Oán Oán Hận Phòng The

Nhân thế bi hoan bất khả tri
Thật khó hiểu được niềm vui và nỗi buồn của con người!
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
Chồng tôi mới trở về nhà sau khi dẹp xong giặc ở Hắc Sơn.
Như kim hữu hiến chinh nam sách
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách chinh phục miền Nam,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y
Tối ngày cứ kêu gọi mọi người mau may quần áo trận.

Bình luận:

Ai cũng biết Cao Biền là một danh tướng nhà Đường, từng dẹp Bắc đánh Nam. Nội dung bài thơ hơi gượng ép vì mâu thuẫn với cuộc sống của người làm thơ. Bài thơ này chủ yếu miêu tả nỗi vui buồn và khao khát trong lòng của người phụ nữ có chồng là chiến binh xa nhà. Nàng khao khát và mong đợi chồng về, nhưng bất lực không đoán trước được thời cuộc, niềm vui và nỗi buồn của thế gian. Nhưng chính người chồng là nguyên nhân của chia ly vì muốn lập công danh. Mới về nhà lại chuẩn bị ra đi theo ý trong câu 3 và 4.

Dịch thơ:

Oán Hận Phòng The

Thể thất ngôn:

Cuộc sống vui buồn khó biết thay,
Giặc yên chàng mới về nhà đây.
Hôm nay Nam tiến chàng dâng kế,
Áo trận sớm chiều thúc giục may.

Thể song thất lục bát:

Ai đoán được vui buồn thế cuộc,
Giặc mới yên chàng được về nhà.
Hôm nay kế hoạch lại ra,
Miền Nam xâm lược dân ta khổ dài.

Sorrow of a Woman by Gāo Pián
The sorrows and joys of people are unpredictable.
My husband has just returned home from conquering a peasants’ uprising at Black Mountain.
Now he is offering a plan to conquer the south lands,
Day and night, he urges the completion his battle garments.

Phí Minh Tâm
***
Góp ý của Lộc Bắc:

Từ khi đến với Đường thi và nhờ có Internet tôi mới biết thêm nhiều điều về Cao Biền. ngoài việc là một danh tướng có thời cai trị nước ta, ông còn là một nhà thơ khá tiếng tăm. Lúc nhỏ tôi thường nghe bà nội và mẹ tôi kể tài phù thủy của ông và những điều ông làm khi cai trị nước ta. Chuyện kể từ lâu nay không còn nhớ rõ, nhưng nội dung thì tương tự như những trích đoạn từ Internet như sau:

Truyền thuyết Cao Biền với Thần Long Đỗ. Xưa Cao Biền Nhà Đường, làm An Nam đô hộ phủ, khi xây thành Đại La, một hôm đi ra chơi cửa Đông, thấy mây năm sắc từ đất đùn lên, ánh sang chói mắt, có bậc dị nhân cưỡi con rồng đỏ, tay cầm kim - giảm, lượn lờ theo mây, hồi lâu chẳng lặn. Biền kinh sợ định yểm. Đêm đến Biền nằm mơ thấy một vị thần tướng cưỡi ngựa trắng, từ trên trời tới thẳng Cao Biền mà nói rằng:" Ta là thần Long Đỗ ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến gặp nhau cớ sao phải yểm". Biền kinh sợ giật mình tỉnh giấc than rằng:" Ta chẳng thể chinh phục được người phương xa sao! Cớ sao mà đến nỗi có yêu quái như vậy!". Bèn làm bùa bằng đồng để yểm. Đêm đó mưa to sấm chớp đùng đùng. Hôm sau ra xem thì thấy bùa đồng đều bị nát thành tro bụi. Biền càng thấy làm lạ, bèn dựng miếu ở cửa Đông để thờ và sắc phong cho Ngài làm Linh Lang Bạch Mã Tôn Thần."

Thần Long Đỗ đền thờ Bạch Mã Hanoi

Truyền thuyết núi Cánh Diều" (Ninh Bình) kể khi sang Giao Châu, thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, Cao Biền thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy xem địa thế, rồi lập đàn cúng tế lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, sau đó đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần cưỡi diều giấy bay đến Hoa Lư thì bị một đạo sĩ cùng dân chúng dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó núi mang tên Cánh Diều.

Cột đá chùa Dạm, theo truyền thuyết là của Cao Biền.

Thành ngữ "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" thực ra "thoát thai" từ truyền thuyết cùng tên kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Biền gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một tên lính. Để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Biền thường nuôi 100 âm binh. Một lần ông ta ở trọ nhà một bà hàng nước, nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương. 100 ngày thắp 100 nén hương sẽ gọi dậy 100 âm binh. Biết được tà ý, bà lão thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Thành ra Biền có đủ 100 âm binh nhưng do "dậy non" nên chẳng làm được trò trống gì...

Lại có "Truyền thuyết mả Cao Biền" kể sau khi trấn yểm Đại La không thành, Biền sợ linh khí nước Nam mà đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, Biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, để mồ mả…Khi chết, Biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện Tuy An còn dấu tích mả Cao Biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao:

Nhìn ra thấy mả Cao Biền
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài

Thần tích làng Phương Nhị kể nhiều về công lao của Cao Biền và nhắc chuyện ông được nhân dân tôn kính gọi là Cao Vương-tên gọi này trùng với câu “thành của Cao Vương” trong Chiếu Dời Đô của của vua Lý Thái Tổ: “Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm; dảm (giảm) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều (đều) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều (đều) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp (dẹp) giặc. Ngài dưng (dâng) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài 10 năm”. Thần tích này kể tiếp: “Sau này, nước Nam ta, tưởng nhớ công đức ngài, có tới 3,4 chăm (trăm) xã lập đền thờ ngài; ở hạt tỉnh Bắc Ninh có hơn chăm (trăm) xã thờ ngài, cờ (cầu) đảo việc gì điều (đều) linh nghiệm cả. Chải (Trải) các chiều (triều) vua điều (đều) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần”.

Theo thần phả làng Vạn Bảo (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội), Cao Biền có một người vợ tên là Lã Thị Nga (còn gọi là Ả Lã, Ả Lã Thị Nương, Lã Đê nương), theo ông sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ở làng Vạn Bảo dệt lụa và truyền dạy nghề dệt lụa cho dân ở đây, trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Cao Biền về Bắc, bà vẫn ở lại Hà Đông. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Bà Ả Nương sinh ngày 10/8 Âm lịch, mất ngày 25 tháng Chạp. Sau khi bà mất, được thờ làm Thành hoàng làng tại Đền thờ làng Vạn Phúc.
(Trích từ Internet)

Phỏng dịch bài Khuê Oán của Cao Biền

Oán Phòng Khuê

Trần thế vui buồn khó biết thay
Hắc sơn phá trận mới về đây
Hôm nay hiến kế bình nam chiến
Áo trận tối ngày giục giã may!

Lộc Bắc
Jui25