Hàn Dũ 韓愈 (768-824) tự là Thoái Chi 退之, sinh quán ở Nam Dương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Tổ phụ là người huyện Xương Lê nên ông thường tự xưng là Hàn Xương Lê. Ông sinh năm 768, mất năm 824 và do đó được xếp vào những tác gia của Trung Ðường. Mồ côi cha mẹ từ năm ba tuổi, thuở nhỏ ông có một cuộc sống rất cực khổ, sống chung với anh và khi anh chết thì ông được người chị dâu dưỡng dục cho đến khi thành tài. Tình cảm sâu đậm giữa ông và gia đình người anh sau này đã được ông kể lại trong bài Tế thập nhị lang văn bất hủ. Ông rất thông minh, mới hai mươi bốn tuổi đã đỗ tiến sĩ. Hoạn lộ bắt đầu bằng chức Thôi quan cho các Tiết độ sứ, rồi được gọi về triều giữ chức Tứ môn bác sĩ, sau thăng lên Ngự sử. Không rõ vì lẽ gì, ông bị Dục Tông biếm đi làm huyện lệnh ở một huyện nhỏ nhưng chỉ ít lâu sau lại được triệu về kinh giữ chức Quốc tử giám bác sĩ. Khi tể tướng Bùi Ðộ và Lý Sóc (Lý Tố) vâng lệnh cầm quân dẹp loạn Hoài Tây, ông cũng đi theo giữ chức Hành quân tư mã. Dẹp loạn thành công, Ðường Hiến Tông sai ông viết bài văn Bình Hoài Tây bi. Bài văn làm tăng thêm sự rạn nứt giữa Bùi Ðộ và Lý Sóc vì Hàn cho rằng tất cả công lao đều thuộc về Bùi Ðộ. Ðiều này có lẽ cũng dễ hiểu vì giữa hai phái bảo thủ và cách tân đang dằng co giữa triều đình lúc bấy giờ, Hàn là người của phe bảo thủ. Ông được thăng Hình bộ thị lang sau đó.
Ðường Hiến Tông vào những năm cuối đời rất tin đạo Phật. Nghe nói trong Pháp Môn Tự có thờ một đốt ngón tay của đức Phật trong một tòa tháp, cứ 30 năm mới mở ra một lần cho mọi người vào chiêm bái, Hiến Tông lập tức cho người rước đốt xương đó vào cung thờ phụng, sau lại rước ra chùa cho mọi người xem. Những cuộc đưa rước, chiêm bái của ông hết sức linh đình, xa xỉ. Vua tin thì quan viên cũng hùa theo, một phong trào sùng bái xương Phật lan tràn khắp nơi, người giàu thì đua nhau quyên tiền hương hỏa, người nghèo thì chầu chực xin những nén hương trong chùa tự đốt phỏng thân thể để chứng tỏ lòng thành kính.
Hàn Dũ phóng bút viết bài Gián nghinh Phật cốt biểu (còn gọi là Luận Phật cốt biểu) dâng lên can gián Hiến Tông, lời lẽ rất đanh thép, cứng rắn, có đoạn khuyên vua nên ném xương Phật vào nước lửa, Phật có giáng tội ông xin chịu hết. Hiến Tông vô cùng thịnh nộ, đã định đem ông ra chém, may nhờ có nhiều người can gián ông mới thoát chết, chỉ bị đày đến Triều Châu, thuộc Quảng Tây ngày nay. Ðây cũng chính là nơi ông để lại bài Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương và bài Tế ngạc ngư văn nổi tiếng. Tế ngạc ngư văn đã khiến ông được Hiến Tông phục chức cho trở lại kinh đô giữ chức Quốc tử giám tế tửu, sau thăng Binh bộ thị lang.
Với bài Luận Phật cốt biểu, ta phải nghĩ rằng những chuyện mê tín dị đoan chắc chẳng thể nào vào tai Hàn. Nhưng ông lại chết vì uống thuốc trường sinh. Có lẽ đây là do ảnh hưởng của người cháu là Hàn Tương, một tín đồ của Ðạo gia, mà truyền thuyết cho rằng là một trong Bát Tiên.
Về mặt văn học, Hàn để lại ít thơ nhưng là một văn gia kiệt xuất của Ðường triều. Là người đứng đầu trong Ðường Tống bát đại văn gia, ông chủ trương từ bỏ lối văn biền ngẫu lời đẹp mà ý rỗng. Ông viết rất nhiều bài văn gây ảnh hưởng lớn trong văn đàn thời đó. Bài Tống Lý Nguyện quy Bàn Cốc tự và bài Tế thập nhị lang văn của ông được dùng để làm ví dụ về văn phong giản dị, ý tứ chân thành, trong nhiều tuyển tập cổ văn Trung Việt.
Ba bài ngũ ngôn tứ tuyệt dưới đây tóm lược nỗi lòng sâu thăm thẳm của người vợ sống xa chồng ở tuổi đôi mươi. Mời các bạn thưởng thức và góp ý.
Nguyên tác Dịch âm
青青水中蒲其一 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 1青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ,
下有一雙魚 Hạ hữu nhất song ngư.
君今上隴去 Quân kim thượng Lũng khứ,
我在與誰居 Ngã tại dữ thuỳ cư?
青青水中蒲其二 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 2青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ,
長在水中居 Trường tại thuỷ trung cư.
寄語浮萍草 Ký ngữ phù bình thảo,
相隨我不如 Tương tuỳ ngã bất như.
青青水中蒲其三 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 3青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ,
葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thuỷ.
婦人不下堂 Phụ nhân bất hạ đường,
行子在萬里 Hành tử tại vạn lý.
Chú giải:Ba bài này Hàn Dũ viết lúc 25 tuổi gửi tặng vợ, tỏ niềm thông cảm với nỗi cô quạnh của nàng. Bồ: Cỏ bồ, thứ cỏ rất nhẹ.
Dịch thơ
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 1Bồ trong nước xanh rờn
Cặp cá lội an nhàn
Nay chàng ở đất Lũng
Thiếp phải sống cô đơn.
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 2Bồ trong nước xanh rờn
Bồ nước tợ keo sơn
Nhắn cánh bèo trôi nổi
Ta theo chẳng kịp chàng
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 3
Bồ trong nước xanh rờn,
Lá ngắn chẳng bỏ nước.
Nữ nhi không xuống đường
Theo chàng vạn dặm được!Lời bànChỉ cần đọc ba bài này cũng đủ biết chân tình của Hàn Dũ đối với vợ. Ông là thi sĩ thời Đường, sau Lý Thương Ẩn và Nguyên Chẩn, làm nhiều thơ ca tụng vợ; rất may vợ ông đã dẫn ông đi trọn đường đời. (Không bạc như bà Cò, đã để ÔC đi một mình trên một đoạn đường có thể dài tới 20 năm).
Rất thương mến. Rất chân thành. Rất keo sơn.
Con Cò
***
***
Cỏ Bồ Xanh Trong NướcKỳ 1Cỏ Bồ trong nước xanh xanhTung tăng đôi cá lượn quanh lững lờNay chàng đất Lũng mịt mờCòn thiếp ở lại bơ vơ ai cùng.Kỳ 2Cỏ Bồ trong nước xanh màuTrầm mình sống đã từ lâu nơi nàyNhắn với bèo dạt trôi hoàiTa đây chẳng thể miệt mài như ngươi.Kỳ 3Cỏ Bồ trong nước xanh xanhLá ngắn không vượt thôi đành náu nươngNữ nhi chẳng thể lên đườngCó tìm nhau được dặm trường chàng xaKim Oanh***
Bồ Bồ Xanh Trong Nước
Kỳ 1
Bồ bồ trong nước mọc xanh
Đôi cá thanh thản bơi quanh lượn lờ
Lũng Tây chàng ngụ bây giờ
Còn em ở lại bơ vơ một mình
Kỳ 2
Bồ bồ trong nước xanh tươi
Đã sống sung mãn bao mươi năm dài
Rong bèo trôi dạt miệt mài
Như ta không giống hình hài với mi
Kỳ 3
Bồ bồ trong nước mọc xanh
Ngắn lá nên chỉ mỏng manh là là
Phận gái không ra khỏi nhà
Chàng thì vạn dặm cách xa muôn trùng
Thanh Vân
***
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước.
Kỳ 1
Trong nước bồ xanh lơ,
Dưới đôi cá lượn lờ.
Chàng nay lên đất Lũng,
Thiếp ở với ai cơ?
Kỳ 2.
Bồ trong nước xanh mầu,
Nhà ở đây từ lâu.
Nhắn gửi bèo trôi nổi,
Theo nhau có được đâu.
Kỳ 3.
Bồ xanh xanh dưới nước,
Lá ngắn không ngoi được.
Vợ chẳng thể xa nhà,
Chàng muôn dậm cất bước.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Aug. 30/2025.
***
Góp Ý Cho Bài THANH THANH THUỶ TRUNG BỒ Của Hàn Dũ.
Ba bài thơ của Hàn Dũ, đều bắt đầu bằng cái tựa: thơ ngũ ngôn, rất dễ thương, không có chữ khó, nói về nỗi lòng của người vợ khi phải xa chồng.
Cỏ Bồ có 2 loại chính là Hương Bồ (hay Thuỷ Hương Bồ) và Xương Bồ.
* Thủy Hương Bồ không thơm vì hoa mà vì củ.
- Hương Bồ, Typha Ceae, cỏ lác, bồn bồn.
- Hương Bồ lá hẹp, Typha Angustifolia, thủy hương, bồ hoàng.
- Hương Bồ lá rộng, Typha Latifolia, cũng gọi là bồn bồn.
*Xương Bồ, có
-Thuỷ Xương Bồ (Acorus Calamus và Acorus Verus)
-Thạch Xương Bồ (Acorus Gramineus)
Mấy loại này không biết mình gọi là gì.
Trong bài thơ Nguyên Chẩn tặng Tiết Đào có câu “Xương Bồ hoa phát ngũ vân cao “. Bồ này chắc Thủy Xương Bồ.
Trong truyện Thạch Nữ Giá Bồ Lang của Hư Chu, kề về cuộc hôn nhân của cô gái họ Thạch với chàng trai họ Bồ trên núi Tản Viên, thì Bồ này chắc Thạch Xương Bồ.
Cây Bồ trong thơ của Hàn Dũ, mọc dưới nước, phải là Thuỷ Hương Bồ hay Thủy Xương Bồ, nhưng không có loại nào chìm trong nước vì lá ngắn như trong bài 3.
Ba bài thơ này, BS dịch theo lục bát, coi êm tai và lãng mạn hơn.
Cỏ Bồ Xanh Xanh Trong Nước
Kỳ 1:
Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Có đôi cá lượn loanh quanh vui vầy,
Nay chàng đi tới Lũng tây,
Ai người cùng thiếp ở đây bây giờ?
Kỳ 2:
Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Cả đời phải chịu ngâm mình một nơi,
Nhắn lời với đám bèo trôi,
Rằng ta chẳng thể theo người được đâu.
Kỳ 3:
Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Lá kia quá ngắn nên đành chìm sâu,
Đàn bà không thể đi đâu,
Chàng xa vạn dặm tìm nhau được nào.
Bát Sách.
(Ngày 02/09/2025)
***
Thủy hương bồ (Typha augustifolia, tên thông tục quen biết với người xứ Huế là bồn bồn.)
Cỏ Bồ là loại cỏ hoang dại mọc ở bãi bùn mé sông, ao hồ, ruộng; mọc ở nhiều nơi trên thế giới. Gần đây cây này được dùng như một loại rau có giá trị được nhiều người trong nước ưa chuộng và được trồng tỉa. Ở Canada nhiều người ở ven sông cũng thích và tìm kiếm loại cỏ này làm thực phẩm.
Xin mời xem 2 clips theo links sau đây:
https://www.youtube.com/watch?v=2ZPfZIXCjF8https://www.youtube.com/watch?v=2vFNQh-sMn8Giống như hoa sen cỏ bồ mọc trong bùn nhưng không ‘hôi tanh mùi bùn’. Qua bài này Hàn Dũ mượn cỏ bồ để tự ví mình
Phỏng dịch ba bài Thanh thanh thủy trung bồ của Hàn Dũ:
Xanh xanh trong nước cỏ bồ
Kỳ 1
Trong nước xanh cỏ bồ
Phiá dưới lượn song ngư
Nay chàng đi đất Lũng
Sống cùng ai bây giờ?
Kỳ 2Trong nước xanh cỏ bồ
Luôn tại sông gần bờ
Nhắn với lục bình nổi
Trôi theo chẳng được như!
Kỳ 3
Trong nước xanh cỏ bồ
Lá ngắn khôn rời nước
Phụ nữ chẳng ra đường
Người thì muôn dặm lướt
Lộc Bắc
***
Nguyên tác: Phiên âm: Dịch thơ:
青青水中蒲 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ
三首-韓愈 Tam Thủ - Hàn Dũ Bồ Bồ Xanh Trong Nước
其一 Kỳ 1
青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ Bồ bồ xanh trong nước,
下有一雙魚 Hạ hữu nhất song ngư Đôi cá lội khoan thai.
君今上隴去 Quân kim Thượng Lũng khứ Chàng đã đi Thượng Lũng,
我在與誰居 Ngã tại dữ thùy cư Em biết sống cùng ai?
其二 Kỳ 2
青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ Bồ bồ xanh trong nước,
長在水中居 Trường tại thủy trung cư Năm tháng sống nơi này.
寄語浮萍草 Ký ngữ phù bình thảo Nhắn với bèo trôi dạt,
相隨我不如 Tương tùy ngã bất như Hãy cùng ở lại đây.
其三 Kỳ 3
青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ Bồ bồ xanh trong nước,
葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thủy Lá ngắn nước không vượt.
婦人不下堂 Phụ nhân bất hạ đường Đàn bà không bỏ nhà,
行子在萬里 Hành tử tại vạn lý Vạn dặm chàng đi xa.
Đây là ba bài ngũ ngôn theo thể nhạc phủ mà Hàn Dũ viết năm 793 khi còn trẻ, sống xa vợ, bày tỏ sự thông cảm với nỗi cô đơn của nàng. Mộc bản bài thơ có chép trong các sách:
Biệt Bổn Hàn Văn Khảo Dị - Đường - Hàn Dũ 别本韩文考异-唐-韩愈
Đông Nhã Đường Xương Lê Tập Chú - Đường - Hàn Dũ 东雅堂昌黎集注-唐-韩愈
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 乐府诗集-宋-郭茂倩
Ghi chú:
Bồ蒲 còn gọi là bồ bồ hay thủy xương bồ, tên khoa học Acorus Calamus, một giống cây thân cỏ, mọc trong ao và đầm lầy, cao đến 2 mét, lá dài và nhọn, nở hoa màu vàng nâu (còn được gọi là cattail) vào mùa hè.
Thanh thanh: lấy cảm hứng từ hình ảnh những cây bồ bồ xanh mướt trong nước.
Song ngư: ngày xưa, hai con cá được dùng để tượng trưng cho thư tín, ẩn dụ cho nỗi cô đơn khi vợ chồng xa cách nhau.
Thượng Lũng: địa danh trên dãy núi Lũng Sơn, xưa là nơi biên giới phía Tây của Trung Hoa, nay là Lũng Châu tỉnh Cam Túc, có nơi nói là Lũng Tây tỉnh Thiểm Tây.
Ký ngữ: nói ẩn dụ, bèo rong dưới nước có thể ở bên nhau và nương tựa vào nhau
Phù bình: chỉ loại bèo rong xanh nổi trôi trên mặt nước
Tương tùy: đồng hành, tùy thuộc nhau.
Bất như: không giống nhau, không thể so sánh được.
Diệp đoản: lá ngắn chỉ lá ngắn của cây bồ bồ, không thể mọc trên mặt nước, ẩn dụ cho việc không thể cùng chồng ra khỏi nhà.
Xuất thủy: ra khỏi mặt nước, ở đây ý nói rời bỏ cuộc sống trong nước.
Phụ nhân: người phụ nữ, đàn bà.
Bất hạ đường: không thể rời gian nhà chính, không đi ra khỏi nhà một mình.
Hành tử: người đàn ông đang đi xa nhà.
Dịch nghĩa:
Thanh Thanh Thủy Trung Bồ Bồ Bồ Xanh Trong Nước
Kỳ 1
Thanh thanh thủy trung bồ Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Hạ hữu nhất song ngư Bên dưới có một cặp cá bơi.
Quân kim Thượng Lũng khứ Nay chàng đã đi Lũng Tây,
Ngã tại dữ thùy cư Em ở lại nhà biết sống cùng ai?
Kỳ 2
Thanh thanh thủy trung bồ Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Trường tại thủy trung cư Sống lâu dài tại đây.
Ký ngữ phù bình thảo Nhắn với cánh bèo trôi dạt,
Tương tùy ngã bất như Ta chẳng nổi trôi như ngươi được.
Kỳ 3
Thanh thanh thủy trung bồ Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Diệp đoản bất xuất thủy Lá ngắn không ra khỏi nước được.
Phụ nhân bất hạ đường Đàn bà không được ra khỏi nhà,
Hành tử tại vạn lý Người ra đi giờ xa ta vạn dặm.
Green Calamus by Han Yu
Green calamus grows in the water, and beneath it swims a pair of fish.
Now you are traveling far to Longzhou, with whom shall I live here?
Green calamus grows in the water, and it has always lived here.
A message to the drifting duckweed: I would rather you stay with me all the time
Green calamus grows in the water, its leaves so short that they cannot leave the surface of the water.
Women often find it difficult to leave the house, and the one who travels is thousands of miles far away.
31-8-2025
Phí Minh Tâm