Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

Trung Thu Tôi!

Tuổi thơ tôi!


Tết Trung Thu là lễ hội truyền thống lâu đời, trăng rằm rằm tháng Tám tròn xoe, sáng soi khắp làng. Lũ trẻ lòng tràn đầy niềm vui, tụ năm tụ ba vót tre, quây hồ, cắt giấy, chuẩn bị đèn cầy,  đế hoàn thành chiếc lồng đèn rước lễ trong đêm. Đặc biệt mỗi đứa có một chiếc đèn khác nhau  Nhịp trống vang lên, từng đứa nối đuôi nhau cùng cất hát,  những bài ca nhi đồng.


Lễ hội tháng Tám trong Làng
Hát lên, nhịp trống rộn ràng niềm vui
Ánh trăng soi sáng bầu trời
Đèn lồng muôn sắc đẹp ngời tuổi thơ

Nhà nhà đều có chiếc đèn treo trước của, dù giàu hay nghèo cũng không thể thiếu. Người lớn chuẩn bị những chiếc bánh Trung Thu thơm ngon, cùng nhau quây quần kể chuyện. 

Thuở ấy Chú Cuội và chị Hằng luôn trong suy nghĩ non nớt, câu chuyện cổ tích bí ẩn và cứ mãi tìm tòi...tưởng tượng ...

Hạnh phúc ấy vẫn còn mãi trong tiềm thức của mỗi người, dù qua biết bao thay đổi với thời gian.


Tuổi mơ tôi!

Môt thời con gái mộng mơ. Tâm sự chẳng dám tỏ cùng ai, 
đêm đêm nhìn xuyên qua kẽ lá, chỉ có vầng trăng làm chứng, chỉ có trăng nghe được những lời tâm sự, kể lễ thiết tha... Làm như Trăng là người trong mộng vậỵ....


Kìa hãy lén xem! Trăng ngại rồi
Núp sau nhành lá trộm nhìn thôi
Lắng nghe rạo rực tim sai nhịp
Trăng có bồi hồi thở hộ tôi

Bao nhiêu thầm kín, bao nhiêu tâm tư trút cạn, chỉ trăng thấy cả ruột gan...chỉ có trăng ve vuốt vai gầy, được tựa đầu cho giấc ngủ mộng đầy....bay cao.

Trăng ấp ủ ngoan dỗ giấc ngon
Chớ nên trằn trọc kẻo hao mòn
Tình tôi tạm trú đêm trăng nhé!
Gối tựa vai trăng.. mộng rất tròn

Thuở ấy chẳng còn bánh ngọt lồng đèn, mà sao ngọt ngài đến thế, đáng yêu đến thế! Ánh mắt ai xuyên suốt như ánh trăng, dịu êm, nồng nàn cho đêm khuya tròn giấc. Đêm tàn rồi chỉ còn lại trăng với tôi...

Canh đã tàn rồi trăng vẫn non
Bài hát trăng ru thắm cuộc đời
Khép mắt huyền mơ tình vời vợi
Quay quắt yêu rồi... trăng với tôi!

Rồi thời gian vụt qua mau, ngày tháng mơ mộng ấy cũng theo dòng đời trôi nổi... lạc về chốn mịt mờ trong ánh trăng  tan...


Tuổi muộn tôi!

Trăng thiếu phụ ai nhìn không ngơ ngẩn
Đường vào yêu lối dẫn có ai ngờ
Đêm nên thơ lá xanh tình hò hẹn
Thôi cứ vờ để trăng vẹn tiếng yêu

Trung thu nay chỉ là câu chuyện của ký ức, muộn màng, nhưng trăng vẫn như xưa, sáng soi, rực rỡ một góc trời, tiếng lòng tâm sự cùng trăng... nói hoài nói mãi... suốt đời chỉ có tri kỷ trăng thôi!

Trăng Thu ơi, đêm nay bên hiên nhà, trăng có bình yên, có mỉm cười có thấy một bóng gầy... gầy mòn ngóng đợi ...đợi đến lúc trăng tan.... tan vào nỗi nhớ .... vật vờ ....tìm trăng!

Trăng xuyên suốt tận đáy tim
Thấu tình Nỗi Nhớ thệ nguyền cùng Trăng
Âu yếm đầu tựa vai nằm
Đêm dài bất tận.. thì thầm lời ru

Song ngoài dày đặc sương mù
Trăng thưa dần khuất …thiên thu ảo mờ
Nỗi Nhớ hụt hẫng tỉnh mơ
Ôm ghì hạnh phúc vật vờ ...tìm Trăng


Kim Oanh
Trung Thu 2025

Vỡ Tiếng Yêu - Thơ: Kim Oanh - Diễn Ngâm: Hương Nam - Thực Hiện: Kim Oanh


Thơ: Kim Oanh
Diễn Ngâm: Hương Nam
Thực Hiện: Kim Oanh

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

Khuê Oán - Cao Biền 閨怨 高駢

  


Cao Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里, tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cầm quân dưới triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).

Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.

Nguyên tác          Dịch âm

閨怨                     Khuê Oán


人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri,
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách,
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.

Chú giải

Hắc sơn: Tức giặc Hoàng Cân cuối thời Đông Hán, do Trương Ngưu Giác cầm đầu, quân sĩ có hàng trăm vạn.

Dịch nghĩa

Người đời vui buồn khó mà biết được!
Chồng dẹp xong giặc ở Núi Đen mới trở về.
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách bình định phương nam,
Tối ngày cứ thúc giục mau may xong áo trận.

Dịch thơ

Nỗi Oán Khuê Phòng

Trần thế buồn vui đoán được gì
Chàng vừa phá giặc Hắc Sơn về
Hôm nay lại hiến bình Nam kế
Áo trận giục em may lẹ đi!

Lời bàn 

Cao Biền thay lời vợ oán trách chồng lúc nào cũng để hết tâm trí vào việc đánh giặc và bỏ bê vợ hiền. Câu kết rất khéo, ngụ ý rằng: “(Cả năm vắng nhà), vừa phá xong giặc Hắc Sơn về; chàng (không màng giao hoan với em), chỉ giục em may gấp áo trận để (ngày mai đi) bình định phương Nam!”.

Bài thơ này độc đáo ở điểm: một võ tướng lừng danh tả nỗi lòng của vợ oán mình đã bỏ bê nàng.
Bài thơ còn tiềm ẩn một nỗi ân hận (như một bài thú tội ngoại tình) của một võ tướng với vợ hiền: “Chỉ có mình em chịu cành phòng không gối chiếc; ta, với quyền bính trong tay, vẫn có gái đẹp để vui vầy ngay tại chiến trường”.

Con Cò
***
 Khuê Oán, Cao Biền.

Phỏng the than vãn.
Trần thế vui buồn thật khó hay,
Núi Đen chàng dẹp mới về đây.
Bình Nam chiến lược nay dâng kế,
Áo trận đêm ngày giục giã may.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 14/2025.
***
Than Oán Khuê Phòng - Cao Biền

Thế sự vui buồn khó biết thay
Hắc Sơn chàng dẹp mới quay về
Nam chinh nay lại dâng mưu kế
Áo trận đêm ngày vội vã may.

Kim Oanh
***
Góp Ý Cho Bài Khuê Oán Của Cao Biền.

Theo Thi Viện, tiểu sử của Cao Biền quá sơ sài. Sau đây là tiểu sử chi tiết hơn một chút: Cao Biền, tự Thiên Lý, người U Châu, sinh năm 821, chết năm 887, được 66 tuổi. Biền là con nhà tướng, giỏi văn chương, nhưng cũng làm tướng giống như ông, cha (Hữu Thần Sách Đô Ngu Hầu của Thần Sách Quân).

Vì có công dẹp Đảng Hạng, được làm Thứ Sử Tần Châu.
Năm 863, làm An Nam Đô Hộ Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ.

Năm 865, vì có hiềm khích với Lý Duy Chu, bị xàm tấu, suýt bị tội. Nhưng vì đánh được Nam Chiếu, giết Đoàn Tù Thiên và Chu Đạo Cơ nên không mất chức.
Năm 866, Đường Ý Tông đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Tĩnh Hải Quân, cử Biền làm Tiết Độ Sứ.
Năm 868, về Trường An, làm Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư, Vận Châu Thứ Sử, Thiên Bình Tiết Độ Sứ.

Năm 874, bị sai đi đánh Tây Xuyên.
Năm 875, làm Tây Xuyên Tiết Độ Sứ.
Năm 876, đánh và dẹp yên nước Đại Lễ
Năm 878, làm Kinh Nam Tiết Độ Sứ, rồi làm Tiết Độ Sứ Trấn Hải và Hoài Nam.

Trong thời gian này, Cao Biền có góp sức đánh Hoàng Sào, nhưng không thành công, được cử làm Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ, coi về muối và sắt.

Vì có hiềm khích với Đường Hy Tông, Cao Biền cáo bệnh, không chịu đánh Hoàng Sào.
Năm 882, được phong làm Thị Trung, nhưng mất chức Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ.

Trong nhiều năm, Cao Biền chỉ lo tranh chấp quyền lực với Lã Dụng Chi, Tất Sư Đạc, Tần Ngạn, đánh nhau lung tung. Đến năm 887, Tần Ngạn sai người tới giết Cao Biền và toàn gia.

Nhìn tiểu sử Cao Biền, mình mới hiểu là Cao lo chiến trận, công danh, không còn thì giờ cho vợ nên trong lòng có chút hối hận, mà làm bài Khuê Oán, thay vợ tỏ nỗi lòng của nàng.

Cao Biền là người có rất nhiều huyền thoại ở Việt Nam, như chôn đậu thành binh sĩ, cưỡi diều đi coi địa lý, trấn yểm hay phá các long mạch của mình..

Năm 866, Biền làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, trực tiếp cai trị Việt Nam.
Lý Nguyên Hy đã đắp La Thành, nhưng nhỏ và không kiên cố. Cao Biền đắp Đại La Thành năm 866, rất rộng lớn, phong Long Đỗ làm thành hoàng.
Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô về đây, vì thấy rồng bay lên nên đổi tên là Thăng Long, vẫn giữ Long Đỗ làm thành hoàng, phong Cao Biền làm Cao Vương.

Trong đền Bạch Mã ở Hà Nội, bên cạnh tượng Long Đỗ, có tượng một người cưỡi ngựa trắng, người ta cho đó là Cao Biền.

Bài thơ ngắn, dễ hiểu, không có chữ khó. Hắc Sơn, ÔC theo Thi Viện, nói rằng chỉ giặc khăn vàng, cuối đời Hán. BS không biết nên phải chấp nhận, nhưng có 2 Hắc Sơn, một ở Tân Cương, phía Tây Bắc của Tầu, là nơi đánh nhau với Hung Nô, mà Trần Đào nhắc đến trong bài Lũng Tây Hành kỳ 4.

Hắc Sơn chỉ khăn vàng chắc ở Trực Lệ (Sơn Đông?). Người lập ra giặc khăn vàng là Trương Giác, không phải Trương Ngưu Giác như Thi Viện và ÔC. Ngưu Giác chỉ là một đầu mục của Trương Giác.

Đây là bài dịch của BS :

Khuê Oán Của Cao Biền.

Nhân thế vui buồn khó biết thay,
Hắc Sơn dẹp giặc mới về đây,
Hôm nay dâng kế bình nam nữa,
Áo trận tối ngày thúc dục may.

Bát Sách.
(Ngày 15/06/2025)
***

Nguyên tác: Phiên âm:

閨怨-高駢 Khuê Oán - Cao Biền

人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y

Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句 -宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Cao Biền: danh tướng nhà Đường, có thời làm đô hộ An Nam. Xem thêm Cao Biền – Wikipedia tiếng Việt

Khuê oán: than vãn của người phụ nữ sống cô đơn, lo lắng, bực bội...
Nhân thế: thế giới loài người, cuộc sống
Bi hoan: vui buồn, đề cập đến tất cả các loại cảm xúc của con người
Hắc Sơn: địa danh, nay là ở Cẩm Châu 錦州, Liêu Ninh. Đây là vùng nông dân nổi dậy chống nhà Hán năm 184 do Trương Ngưu Giốc 張牛角 thống lãnh, còn được gọi là loạn Hoàng Cân 黃巾之亂 hay giặc Khăn Vàng.
Chinh Nam: chiến tranh chinh phục miền nam Trung Hoa, có thể liên quan đến trấn an và cai trị An Nam
Tảo vãn: sáng tối, sớm muộn
Hiệu y: áo quần của binh sĩ, một bộ đồng phục được đánh số

Dịch nghĩa:

Khuê Oán Oán Hận Phòng The

Nhân thế bi hoan bất khả tri
Thật khó hiểu được niềm vui và nỗi buồn của con người!
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
Chồng tôi mới trở về nhà sau khi dẹp xong giặc ở Hắc Sơn.
Như kim hữu hiến chinh nam sách
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách chinh phục miền Nam,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y
Tối ngày cứ kêu gọi mọi người mau may quần áo trận.

Bình luận:

Ai cũng biết Cao Biền là một danh tướng nhà Đường, từng dẹp Bắc đánh Nam. Nội dung bài thơ hơi gượng ép vì mâu thuẫn với cuộc sống của người làm thơ. Bài thơ này chủ yếu miêu tả nỗi vui buồn và khao khát trong lòng của người phụ nữ có chồng là chiến binh xa nhà. Nàng khao khát và mong đợi chồng về, nhưng bất lực không đoán trước được thời cuộc, niềm vui và nỗi buồn của thế gian. Nhưng chính người chồng là nguyên nhân của chia ly vì muốn lập công danh. Mới về nhà lại chuẩn bị ra đi theo ý trong câu 3 và 4.

Dịch thơ:

Oán Hận Phòng The

Thể thất ngôn:

Cuộc sống vui buồn khó biết thay,
Giặc yên chàng mới về nhà đây.
Hôm nay Nam tiến chàng dâng kế,
Áo trận sớm chiều thúc giục may.

Thể song thất lục bát:

Ai đoán được vui buồn thế cuộc,
Giặc mới yên chàng được về nhà.
Hôm nay kế hoạch lại ra,
Miền Nam xâm lược dân ta khổ dài.

Sorrow of a Woman by Gāo Pián
The sorrows and joys of people are unpredictable.
My husband has just returned home from conquering a peasants’ uprising at Black Mountain.
Now he is offering a plan to conquer the south lands,
Day and night, he urges the completion his battle garments.

Phí Minh Tâm
***
Góp ý của Lộc Bắc:

Từ khi đến với Đường thi và nhờ có Internet tôi mới biết thêm nhiều điều về Cao Biền. ngoài việc là một danh tướng có thời cai trị nước ta, ông còn là một nhà thơ khá tiếng tăm. Lúc nhỏ tôi thường nghe bà nội và mẹ tôi kể tài phù thủy của ông và những điều ông làm khi cai trị nước ta. Chuyện kể từ lâu nay không còn nhớ rõ, nhưng nội dung thì tương tự như những trích đoạn từ Internet như sau:

Truyền thuyết Cao Biền với Thần Long Đỗ. Xưa Cao Biền Nhà Đường, làm An Nam đô hộ phủ, khi xây thành Đại La, một hôm đi ra chơi cửa Đông, thấy mây năm sắc từ đất đùn lên, ánh sang chói mắt, có bậc dị nhân cưỡi con rồng đỏ, tay cầm kim - giảm, lượn lờ theo mây, hồi lâu chẳng lặn. Biền kinh sợ định yểm. Đêm đến Biền nằm mơ thấy một vị thần tướng cưỡi ngựa trắng, từ trên trời tới thẳng Cao Biền mà nói rằng:" Ta là thần Long Đỗ ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến gặp nhau cớ sao phải yểm". Biền kinh sợ giật mình tỉnh giấc than rằng:" Ta chẳng thể chinh phục được người phương xa sao! Cớ sao mà đến nỗi có yêu quái như vậy!". Bèn làm bùa bằng đồng để yểm. Đêm đó mưa to sấm chớp đùng đùng. Hôm sau ra xem thì thấy bùa đồng đều bị nát thành tro bụi. Biền càng thấy làm lạ, bèn dựng miếu ở cửa Đông để thờ và sắc phong cho Ngài làm Linh Lang Bạch Mã Tôn Thần."

Thần Long Đỗ đền thờ Bạch Mã Hanoi

Truyền thuyết núi Cánh Diều" (Ninh Bình) kể khi sang Giao Châu, thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, Cao Biền thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy xem địa thế, rồi lập đàn cúng tế lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, sau đó đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần cưỡi diều giấy bay đến Hoa Lư thì bị một đạo sĩ cùng dân chúng dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó núi mang tên Cánh Diều.

Cột đá chùa Dạm, theo truyền thuyết là của Cao Biền.

Thành ngữ "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" thực ra "thoát thai" từ truyền thuyết cùng tên kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Biền gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một tên lính. Để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Biền thường nuôi 100 âm binh. Một lần ông ta ở trọ nhà một bà hàng nước, nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương. 100 ngày thắp 100 nén hương sẽ gọi dậy 100 âm binh. Biết được tà ý, bà lão thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Thành ra Biền có đủ 100 âm binh nhưng do "dậy non" nên chẳng làm được trò trống gì...

Lại có "Truyền thuyết mả Cao Biền" kể sau khi trấn yểm Đại La không thành, Biền sợ linh khí nước Nam mà đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, Biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, để mồ mả…Khi chết, Biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện Tuy An còn dấu tích mả Cao Biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao:

Nhìn ra thấy mả Cao Biền
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài

Thần tích làng Phương Nhị kể nhiều về công lao của Cao Biền và nhắc chuyện ông được nhân dân tôn kính gọi là Cao Vương-tên gọi này trùng với câu “thành của Cao Vương” trong Chiếu Dời Đô của của vua Lý Thái Tổ: “Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm; dảm (giảm) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều (đều) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều (đều) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp (dẹp) giặc. Ngài dưng (dâng) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài 10 năm”. Thần tích này kể tiếp: “Sau này, nước Nam ta, tưởng nhớ công đức ngài, có tới 3,4 chăm (trăm) xã lập đền thờ ngài; ở hạt tỉnh Bắc Ninh có hơn chăm (trăm) xã thờ ngài, cờ (cầu) đảo việc gì điều (đều) linh nghiệm cả. Chải (Trải) các chiều (triều) vua điều (đều) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần”.

Theo thần phả làng Vạn Bảo (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội), Cao Biền có một người vợ tên là Lã Thị Nga (còn gọi là Ả Lã, Ả Lã Thị Nương, Lã Đê nương), theo ông sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ở làng Vạn Bảo dệt lụa và truyền dạy nghề dệt lụa cho dân ở đây, trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Cao Biền về Bắc, bà vẫn ở lại Hà Đông. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Bà Ả Nương sinh ngày 10/8 Âm lịch, mất ngày 25 tháng Chạp. Sau khi bà mất, được thờ làm Thành hoàng làng tại Đền thờ làng Vạn Phúc.
(Trích từ Internet)

Phỏng dịch bài Khuê Oán của Cao Biền

Oán Phòng Khuê

Trần thế vui buồn khó biết thay
Hắc sơn phá trận mới về đây
Hôm nay hiến kế bình nam chiến
Áo trận tối ngày giục giã may!

Lộc Bắc
Jui25

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Khối Tình Thu

 

Xuân người giấc đẹp chưa xong
Thu ta dìu lá mơ lòng cùng ai
Hồn xanh mộng ước chưa phai
Gợi lòng lưu luyến nhớ hoài mùi hương

Đàn hòa ru khúc đêm trường
Xạc xào lá hát tơ vương cung lòng
Trăng soi đáy mắt hồ trong
Chợt thuyền lá nhẹ khuấy vòng vỡ tan...

Giọt bi lụy cảm dâng tràn
Dòng thu lặng lẽ cùng mang nỗi sầu
Bến tương tư nhớ về nhau
Hai bờ chia cách bóng câu tạ từ

Mộng vàng một cõi riêng tư
Góc chờ vẫn đợi ấy chừ người đâu
Thương vay sương phủ bạc đầu
Canh tàn mộng vỡ chôn sâu khối tình!

Kim Oanh

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2025

Đêm Xuân Trò Chuyện Cùng Má!

(Trà Vinh 1957. Con được 5 tháng tuổi trong bụng Má)

Má ​thương yêu của con ơi.

Một mùa xuân nữa đang trở về với khu vườn đầy màu sắc, chim ca, hoa rộ nở xinh tươi. Đặc biệt xuân nay theo Phật giáo đúng vào mùa Vu Lan, bên Công giáo là Năm Thánh mỗi 25 năm mới đến một lần. 
Má ơi! Giỗ của Má cũng đúng dịp này. Vui quá phải không ba má của con!

Vậy đêm nay má con mình cùng nhau tâm tình ôn lại những ngày đầu đến xứ người nha ba má..

Đã 23 năm má rời xa cũng đã 23 năm con có những giờ phút lặng lẽ, lật lại ký ức và những lưu vật quý báu đối với con.

Ngày đầu tiên má đế Úc, trong phòng ba má con đề 2 bộ Pyjama, 2 chiếc đồng hồ Seiko, Khăn tắm, khăn mặt, kem và bàn chải đánh răng. Riêng má con để thêm quyển nhật ký và cây viết. Má vui mừng hiện trên gương mặt, cầm quyển nhật ký, cây viết là món quà đắc ý, Má cười nói " sao con hiểu ý má vầy" rồi nói với ba "con Oanh ý tứ vậy đó" Má ơi, vì con được má truyền cho con giống má mà, ngày xưa xửa khi vừa lớn, con cũng có 1 quyển nhật ký, chỉ có nó là người bạn tin cậy nhất để mình có thể tâm sự, bộc bạch hết đáy lòng mình phải không má, và nó cũng là tri kỷ là nguồn vui cho mình hy vọng tin yêu.

Tuy nhiên má cao siêu hơn, má ghi chép nhiều điều quý nhất,má ghi chép về gia phả, ngày giờ sanh​, ngày giờ mất của ông bà ngoại, ông bà nội, cô bác cậu dì, họ hàng, ​a​i còn ai mất. Nếu không có, ngày nay ai nói để chúng con biết. Ngoài ra những kết toán sinh hoạt của má hàng ngày. hàng tháng, hàng năm.... năm này qua năm khác, con còn giữ nguyên trong ngăn cặp đây.

Nhưng kết toán gì đây má hỡi, toàn là chi phí cho con cháu, dâu rể, họ hàng, còn kẹt lại ở Việt Nam. Sổ sách của má chi thì nhiều mà thu chẳng bao nhiêu, chỉ với số tiền an sinh xã hội chu cấp vừa đủ, vậy thì sao có dư, thì ra ba má đã chắt chiu, tiện tặn để chu toàn mọi thứ.Từ một thời tuổi trẻ cho đến tuổi già ba má vẫn miệt mài lo lắng, thương yêu, đùm bọc.

Nhìn lại 12 tờ khai sinh, của ba má và 10 đứa con thẳng thớm, được cất kỹ qua bao biến cố chạy loạn và nay đã đến Úc cùng ba má. hồ sơ con bảo lãnh, Sổ thông hành Việt Nam khi đến Úc định cư, giấy nhập cư vào Úc, giấy vào quốc tịch, sổ ngân hàng, thẻ Medicare đều vẹn nguyên.


Đọc lại những quyển tập, ba má đi học Anh Văn nét chữ đẹp đẽ, Khó ai có thể nghĩ đến hai ông bà tóc trắng phau, ngày nào cũng cắp sách đến trường. Con nhớ hoài lời Má nói " tại sao mình muốn con cháu phải học tiếng Việt để không quên cội nguồn, thì tại sao mình không học tiếng Anh để được gần gũi chuyện trò để hiểu con cháu hơn". Ngày ấy con còn chưa được suy nghĩ cấp tiến và tâm lý như ba má vậy.

Má ơi, con sẽ giữ tất cả báu vật của má gửi trao, đến giây phút cuối cuộc đời con, con sẽ trao lại cho hai đứa cháu ngoại của má tiếp tục giữ gìn, những gì má giao phó cho con má hãy yên tâm nha ba má.

Nhìn lại những tấm hình ngày má về với ba, cả một quãng đời sung sướng, vui buồn, tần tảo, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi, tươi tắn, hiền hòa... Những bức hình khi được an lành nơi xứ người, nụ cười rạng rỡ., phúc hậu...tràn đầy tin yêu.

Ba má đã chấp nhận cuộc sống mới dễ dàng, không muốn làm gánh nặng cũng chỉ vì thương con cháu, chúng đang bôn ba vớí cuộc sống cho gia đình nhỏ của các con. Nhìn lại, suy ngẫm lại con rất hãnh diện và lòng tràn đầy sự kính trong thương yêu chân tình của ba má dành cho chúng con.

(Hawthorn 1985, trước ngõ nhà con)

Một chặng cuối cuộc đời hạnh phúc an nhàn vì trách nhiệm và bổn phận làm cha mẹ đã hoàn thành như mong mỏi. Ba đã thanh thản ra đi trong giấc ngủ bình yên. Rồi má thấy ba về nói, ba đã xây nhà mới về đón má cùng đi. và má một lần nữa về với ba trong hạnh phúc ngọt ngào nơi vùng trời mới.

Má ơi, tuy mùa xuân... nhưng giờ đây ngoài trời đang mưa, lòng con cũng mưa .... nhưng những giọt mưa trọn vẹn niềm hạnh phúc vô biên vì được cùng má ba trò chuyện đêm nay.

Sáng mai ba má cùng ăn với con bữa cơm ngon miệng, hy vọng thức ăn con nấu được má chấm điểm trung bình là con mừng hết lớn rồi...hihihi....và giây phút ấm áp này ba má cùng Ông bà con lên đường bình an về nơi căn nhà mới của má ba....

Thuở 15 ba cưới má về
Chu toàn dâu thảo phu thê trọn tình
Mong con rực ánh bình minh
Chống chèo gian khổ gia đình ấm êm
Keo sơn kết chặt nợ duyên
Trước sau như một hương nguyền chẳng vơi
Đến khi nhắm mắt lìa đời
Thủy chung vẹn giữ về Trời có nhau
Ba má dòng suối ngọt ngào
Tấm gương lưu lại đẹp màu sáng soi
23 năm má đã xa rời
Đêm nay con nguyện với lời cầu kinh
Hồng ân huyền nhiệm lung linh
Một đời sống mới Thiên Đình thảnh thơi
Amen!

Thương yêu con gái thứ 9 gửi về Má Ba!

Lê Thị Kim Oanh
Melbourne Lần Giỗ thứ 23. 
24/9/2025

 Mục Lục: Những Bài Văn Khác: Nhấp vào Links









 

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

Hành Trình Của Thơ



Thơ đã lên ngôi chốn học đường
Thơ hằng khao khát thuở yêu đương
Thơ vui suốt tuổi trai khờ khạo
Thơ ủ trong tim gái nõn nường

Thơ vẫn mênh mang lời giản dị
Thơ nào trau chuốt ý văn chương
Thơ luôn nung nấu tình non nước
Thơ mãi âm vang nghĩa xóm phường

Thơ lúc đăng trình theo lý tưởng
Thơ mùa binh lửa giữ quê hương
Thơ reo đuổi giặc ngoài biên ải
Thơ giục hành quân khắp chiến trường

Thơ xót xa ai nằm nghĩa địa
Thơ ngùi thương kẻ gối phong sương
Thơ đau mối hận ngày vong quốc
Thơ giận lòng tham lũ bạo cường

Thơ buổi lên đường đi tị nạn
Thơ đời xa xứ sống tha phương
Thơ luôn khắc khoải tuồng dâu bể
Thơ vẫn u hoài cảnh nhiễu nhương

Thơ nguyện dân tình thôi thống khổ
Thơ cầu đất nước xóa tai ương
Thơ xin thâm tạ người tri kỷ
Thơ ạ, yêu thơ đến lạ thường!

Nguyễn Kinh Bắc


Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

Phế Địa 廢 地 - Trần Văn Lương 陳 文 良

 

Dạo: 

 Quê nhà giờ đã tan hoang,
Còn đâu chỗ để phượng hoàng dừng chân.

Cóc cuối tuần:

廢 地
(懷念永亡的故土)

春 風 久 渡 江,
祖 廟 早 成 荒.
獄 室 肝 腸 折,
家 鄉 血 淚 滂.
泥 中 蟠 赤 子,
殿 裏 據 豺 狼.
搬 撤 梧 桐 樹,
焉 能 住 鳳 凰.
陳 文 良

Phế Địa

(Hoài niệm vĩnh vong đích cố thổ)

Xuân phong cửu độ giang,
Tổ miếu tảo thành hoang.
Ngục thất, can tràng chiết,
Gia hương, huyết lệ bàng.
Nê trung bàn xích tử,
Điện lý cứ sài lang.
Ban triệt ngô đồng thụ,
Yên năng trụ phụng hoàng.

Trần Văn Lương

Dịch nghĩa:

Đất Bị Bỏ Hoang

(Để nhớ về một quê cũ đã vĩnh viễn mất đi)

Gió Xuân đã (bỏ đi) qua sông từ lâu,
Đền thờ Tổ đã thành hoang phế.
(Chốn) ngục tù, ruột gan tan nát.
(Ngay) quê nhà, nước mắt máu tràn đầy.
Trong bùn lầy, bách tính nằm co quắp,
Trong cung điện, lũ sài lang chiếm cứ.
Cây ngô đồng đã bị mang bỏ hết đi chỗ khác,
Làm sao chim phượng hoàng có thể đến ở. (*)

Ghi chú:
(*) Cây ngô đồng và chim phượng:
1. - Trang tử Nam Hoa Kinh, thiên Thu Thủy:
"夫鵷鶵,發於南海而飛於北海,非梧桐不止,
非練實不食,非醴泉不飲."
Âm:
Phù uyên sồ, phát ư nam hải nhi phi ư bắc hải,
phi ngô đồng bất chỉ, phi luyện thực bất thực,
phi lễ tuyền bất ẩm.
Nghĩa:
Cho nên Uyên Sồ (một tên khác của chim phượng)
đi từ biển Nam tới biển Bắc, không phải cây ngô đồng
thì không đậu, không phải hạt luyện (bamboo fruit hay
bamboo rice) thì không ăn, không phải suối ngọt thì không uống.

2.- Ngụy Thư, Bành Thành Vương Hiệp Truyện (魏書,彭城王勰傳):
"鳳凰非梧桐不棲"
Âm:
Phượng Hoàng phi ngô đồng bất thê.
Nghĩa:
Chim phượng hoàng không phải ngô đồng thì không đậu

Phỏng dịch thơ:

Mảnh Đất Bỏ Hoang

(Nhớ về một quê hương đã mất)

Gió Xuân đã bỏ làng,
Xã tắc cũng tan hoang.
Ngục thất, can tràng nẫu,
Gông cùm, máu lệ loang.
Điêu tàn thân bách tính,
Rủng rỉnh túi sài lang.
Vắng bóng tàng cây đợi,
Về đâu hỡi phượng hoàng?

Trần Văn Lương
Madeira,Portugal, 9/2025

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:

Than ôi!
Giang san cẩm tú cha ông để lại đã và đang bị tàn phá tan hoang. Nền văn hóa, luân lý, đạo đức của con người cũng không còn nữa.
Chim phượng hoàng dù có muốn ghé qua cũng
chẳng tìm đâu ra cây ngô đồng để đậu.
Hỡi ơi!

***

Đất Hoang

(Để nhớ về quê cũ đã mất)

Gió xuân thôi qua sông.
Đền thờ Tổ bỏ hoang.
Ngục tù lòng tan nát.
Quê hương lệ máu tràn.
Bùn đất vùi trăm họ.
Cung điện dậy sài lang.
Cây ngô đồng tróc gốc.
Tìm đâu tổ phượng hoàng?


Mùi Quý Bồng
(Phóng tác)
09/11/2025
***
Đất Hoang

(Nhớ về quê hương đã mất)

Gió xuân bỏ xa phương
Đền Tổ lắm đoạn trường
Ngục tù tâm nhừ nát
Lệ máu nhuộm quê hương
Bùn lầy dìm trăm họ
Cung điện giặc nhiễu nhương
Cây ngô đồng gục ngã
Phượng Hoàng biết đâu nương?


Kim Oanh
 
(Phỏng Dịch)
18.9.2025