Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

Khuê Oán - Cao Biền 閨怨 高駢

  


Cao Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里, tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cầm quân dưới triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).

Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.

Nguyên tác          Dịch âm

閨怨                     Khuê Oán


人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri,
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách,
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.

Chú giải

Hắc sơn: Tức giặc Hoàng Cân cuối thời Đông Hán, do Trương Ngưu Giác cầm đầu, quân sĩ có hàng trăm vạn.

Dịch nghĩa

Người đời vui buồn khó mà biết được!
Chồng dẹp xong giặc ở Núi Đen mới trở về.
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách bình định phương nam,
Tối ngày cứ thúc giục mau may xong áo trận.

Dịch thơ

Nỗi Oán Khuê Phòng

Trần thế buồn vui đoán được gì
Chàng vừa phá giặc Hắc Sơn về
Hôm nay lại hiến bình Nam kế
Áo trận giục em may lẹ đi!

Lời bàn 

Cao Biền thay lời vợ oán trách chồng lúc nào cũng để hết tâm trí vào việc đánh giặc và bỏ bê vợ hiền. Câu kết rất khéo, ngụ ý rằng: “(Cả năm vắng nhà), vừa phá xong giặc Hắc Sơn về; chàng (không màng giao hoan với em), chỉ giục em may gấp áo trận để (ngày mai đi) bình định phương Nam!”.

Bài thơ này độc đáo ở điểm: một võ tướng lừng danh tả nỗi lòng của vợ oán mình đã bỏ bê nàng.
Bài thơ còn tiềm ẩn một nỗi ân hận (như một bài thú tội ngoại tình) của một võ tướng với vợ hiền: “Chỉ có mình em chịu cành phòng không gối chiếc; ta, với quyền bính trong tay, vẫn có gái đẹp để vui vầy ngay tại chiến trường”.

Con Cò
***
 Khuê Oán, Cao Biền.

Phỏng the than vãn.
Trần thế vui buồn thật khó hay,
Núi Đen chàng dẹp mới về đây.
Bình Nam chiến lược nay dâng kế,
Áo trận đêm ngày giục giã may.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 14/2025.
***
Than Oán Khuê Phòng - Cao Biền

Thế sự vui buồn khó biết thay
Hắc Sơn chàng dẹp mới quay về
Nam chinh nay lại dâng mưu kế
Áo trận đêm ngày vội vã may.

Kim Oanh
***
Góp Ý Cho Bài Khuê Oán Của Cao Biền.

Theo Thi Viện, tiểu sử của Cao Biền quá sơ sài. Sau đây là tiểu sử chi tiết hơn một chút: Cao Biền, tự Thiên Lý, người U Châu, sinh năm 821, chết năm 887, được 66 tuổi. Biền là con nhà tướng, giỏi văn chương, nhưng cũng làm tướng giống như ông, cha (Hữu Thần Sách Đô Ngu Hầu của Thần Sách Quân).

Vì có công dẹp Đảng Hạng, được làm Thứ Sử Tần Châu.
Năm 863, làm An Nam Đô Hộ Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ.

Năm 865, vì có hiềm khích với Lý Duy Chu, bị xàm tấu, suýt bị tội. Nhưng vì đánh được Nam Chiếu, giết Đoàn Tù Thiên và Chu Đạo Cơ nên không mất chức.
Năm 866, Đường Ý Tông đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Tĩnh Hải Quân, cử Biền làm Tiết Độ Sứ.
Năm 868, về Trường An, làm Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư, Vận Châu Thứ Sử, Thiên Bình Tiết Độ Sứ.

Năm 874, bị sai đi đánh Tây Xuyên.
Năm 875, làm Tây Xuyên Tiết Độ Sứ.
Năm 876, đánh và dẹp yên nước Đại Lễ
Năm 878, làm Kinh Nam Tiết Độ Sứ, rồi làm Tiết Độ Sứ Trấn Hải và Hoài Nam.

Trong thời gian này, Cao Biền có góp sức đánh Hoàng Sào, nhưng không thành công, được cử làm Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ, coi về muối và sắt.

Vì có hiềm khích với Đường Hy Tông, Cao Biền cáo bệnh, không chịu đánh Hoàng Sào.
Năm 882, được phong làm Thị Trung, nhưng mất chức Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ.

Trong nhiều năm, Cao Biền chỉ lo tranh chấp quyền lực với Lã Dụng Chi, Tất Sư Đạc, Tần Ngạn, đánh nhau lung tung. Đến năm 887, Tần Ngạn sai người tới giết Cao Biền và toàn gia.

Nhìn tiểu sử Cao Biền, mình mới hiểu là Cao lo chiến trận, công danh, không còn thì giờ cho vợ nên trong lòng có chút hối hận, mà làm bài Khuê Oán, thay vợ tỏ nỗi lòng của nàng.

Cao Biền là người có rất nhiều huyền thoại ở Việt Nam, như chôn đậu thành binh sĩ, cưỡi diều đi coi địa lý, trấn yểm hay phá các long mạch của mình..

Năm 866, Biền làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, trực tiếp cai trị Việt Nam.
Lý Nguyên Hy đã đắp La Thành, nhưng nhỏ và không kiên cố. Cao Biền đắp Đại La Thành năm 866, rất rộng lớn, phong Long Đỗ làm thành hoàng.
Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô về đây, vì thấy rồng bay lên nên đổi tên là Thăng Long, vẫn giữ Long Đỗ làm thành hoàng, phong Cao Biền làm Cao Vương.

Trong đền Bạch Mã ở Hà Nội, bên cạnh tượng Long Đỗ, có tượng một người cưỡi ngựa trắng, người ta cho đó là Cao Biền.

Bài thơ ngắn, dễ hiểu, không có chữ khó. Hắc Sơn, ÔC theo Thi Viện, nói rằng chỉ giặc khăn vàng, cuối đời Hán. BS không biết nên phải chấp nhận, nhưng có 2 Hắc Sơn, một ở Tân Cương, phía Tây Bắc của Tầu, là nơi đánh nhau với Hung Nô, mà Trần Đào nhắc đến trong bài Lũng Tây Hành kỳ 4.

Hắc Sơn chỉ khăn vàng chắc ở Trực Lệ (Sơn Đông?). Người lập ra giặc khăn vàng là Trương Giác, không phải Trương Ngưu Giác như Thi Viện và ÔC. Ngưu Giác chỉ là một đầu mục của Trương Giác.

Đây là bài dịch của BS :

Khuê Oán Của Cao Biền.

Nhân thế vui buồn khó biết thay,
Hắc Sơn dẹp giặc mới về đây,
Hôm nay dâng kế bình nam nữa,
Áo trận tối ngày thúc dục may.

Bát Sách.
(Ngày 15/06/2025)
***

Nguyên tác: Phiên âm:

閨怨-高駢 Khuê Oán - Cao Biền

人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y

Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句 -宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁

Ghi chú:

Cao Biền: danh tướng nhà Đường, có thời làm đô hộ An Nam. Xem thêm Cao Biền – Wikipedia tiếng Việt

Khuê oán: than vãn của người phụ nữ sống cô đơn, lo lắng, bực bội...
Nhân thế: thế giới loài người, cuộc sống
Bi hoan: vui buồn, đề cập đến tất cả các loại cảm xúc của con người
Hắc Sơn: địa danh, nay là ở Cẩm Châu 錦州, Liêu Ninh. Đây là vùng nông dân nổi dậy chống nhà Hán năm 184 do Trương Ngưu Giốc 張牛角 thống lãnh, còn được gọi là loạn Hoàng Cân 黃巾之亂 hay giặc Khăn Vàng.
Chinh Nam: chiến tranh chinh phục miền nam Trung Hoa, có thể liên quan đến trấn an và cai trị An Nam
Tảo vãn: sáng tối, sớm muộn
Hiệu y: áo quần của binh sĩ, một bộ đồng phục được đánh số

Dịch nghĩa:

Khuê Oán Oán Hận Phòng The

Nhân thế bi hoan bất khả tri
Thật khó hiểu được niềm vui và nỗi buồn của con người!
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
Chồng tôi mới trở về nhà sau khi dẹp xong giặc ở Hắc Sơn.
Như kim hữu hiến chinh nam sách
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách chinh phục miền Nam,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y
Tối ngày cứ kêu gọi mọi người mau may quần áo trận.

Bình luận:

Ai cũng biết Cao Biền là một danh tướng nhà Đường, từng dẹp Bắc đánh Nam. Nội dung bài thơ hơi gượng ép vì mâu thuẫn với cuộc sống của người làm thơ. Bài thơ này chủ yếu miêu tả nỗi vui buồn và khao khát trong lòng của người phụ nữ có chồng là chiến binh xa nhà. Nàng khao khát và mong đợi chồng về, nhưng bất lực không đoán trước được thời cuộc, niềm vui và nỗi buồn của thế gian. Nhưng chính người chồng là nguyên nhân của chia ly vì muốn lập công danh. Mới về nhà lại chuẩn bị ra đi theo ý trong câu 3 và 4.

Dịch thơ:

Oán Hận Phòng The

Thể thất ngôn:

Cuộc sống vui buồn khó biết thay,
Giặc yên chàng mới về nhà đây.
Hôm nay Nam tiến chàng dâng kế,
Áo trận sớm chiều thúc giục may.

Thể song thất lục bát:

Ai đoán được vui buồn thế cuộc,
Giặc mới yên chàng được về nhà.
Hôm nay kế hoạch lại ra,
Miền Nam xâm lược dân ta khổ dài.

Sorrow of a Woman by Gāo Pián
The sorrows and joys of people are unpredictable.
My husband has just returned home from conquering a peasants’ uprising at Black Mountain.
Now he is offering a plan to conquer the south lands,
Day and night, he urges the completion his battle garments.

Phí Minh Tâm
***
Góp ý của Lộc Bắc:

Từ khi đến với Đường thi và nhờ có Internet tôi mới biết thêm nhiều điều về Cao Biền. ngoài việc là một danh tướng có thời cai trị nước ta, ông còn là một nhà thơ khá tiếng tăm. Lúc nhỏ tôi thường nghe bà nội và mẹ tôi kể tài phù thủy của ông và những điều ông làm khi cai trị nước ta. Chuyện kể từ lâu nay không còn nhớ rõ, nhưng nội dung thì tương tự như những trích đoạn từ Internet như sau:

Truyền thuyết Cao Biền với Thần Long Đỗ. Xưa Cao Biền Nhà Đường, làm An Nam đô hộ phủ, khi xây thành Đại La, một hôm đi ra chơi cửa Đông, thấy mây năm sắc từ đất đùn lên, ánh sang chói mắt, có bậc dị nhân cưỡi con rồng đỏ, tay cầm kim - giảm, lượn lờ theo mây, hồi lâu chẳng lặn. Biền kinh sợ định yểm. Đêm đến Biền nằm mơ thấy một vị thần tướng cưỡi ngựa trắng, từ trên trời tới thẳng Cao Biền mà nói rằng:" Ta là thần Long Đỗ ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến gặp nhau cớ sao phải yểm". Biền kinh sợ giật mình tỉnh giấc than rằng:" Ta chẳng thể chinh phục được người phương xa sao! Cớ sao mà đến nỗi có yêu quái như vậy!". Bèn làm bùa bằng đồng để yểm. Đêm đó mưa to sấm chớp đùng đùng. Hôm sau ra xem thì thấy bùa đồng đều bị nát thành tro bụi. Biền càng thấy làm lạ, bèn dựng miếu ở cửa Đông để thờ và sắc phong cho Ngài làm Linh Lang Bạch Mã Tôn Thần."

Thần Long Đỗ đền thờ Bạch Mã Hanoi

Truyền thuyết núi Cánh Diều" (Ninh Bình) kể khi sang Giao Châu, thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, Cao Biền thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy xem địa thế, rồi lập đàn cúng tế lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, sau đó đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần cưỡi diều giấy bay đến Hoa Lư thì bị một đạo sĩ cùng dân chúng dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó núi mang tên Cánh Diều.

Cột đá chùa Dạm, theo truyền thuyết là của Cao Biền.

Thành ngữ "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" thực ra "thoát thai" từ truyền thuyết cùng tên kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Biền gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một tên lính. Để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Biền thường nuôi 100 âm binh. Một lần ông ta ở trọ nhà một bà hàng nước, nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương. 100 ngày thắp 100 nén hương sẽ gọi dậy 100 âm binh. Biết được tà ý, bà lão thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Thành ra Biền có đủ 100 âm binh nhưng do "dậy non" nên chẳng làm được trò trống gì...

Lại có "Truyền thuyết mả Cao Biền" kể sau khi trấn yểm Đại La không thành, Biền sợ linh khí nước Nam mà đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, Biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, để mồ mả…Khi chết, Biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện Tuy An còn dấu tích mả Cao Biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao:

Nhìn ra thấy mả Cao Biền
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài

Thần tích làng Phương Nhị kể nhiều về công lao của Cao Biền và nhắc chuyện ông được nhân dân tôn kính gọi là Cao Vương-tên gọi này trùng với câu “thành của Cao Vương” trong Chiếu Dời Đô của của vua Lý Thái Tổ: “Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm; dảm (giảm) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều (đều) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều (đều) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp (dẹp) giặc. Ngài dưng (dâng) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài 10 năm”. Thần tích này kể tiếp: “Sau này, nước Nam ta, tưởng nhớ công đức ngài, có tới 3,4 chăm (trăm) xã lập đền thờ ngài; ở hạt tỉnh Bắc Ninh có hơn chăm (trăm) xã thờ ngài, cờ (cầu) đảo việc gì điều (đều) linh nghiệm cả. Chải (Trải) các chiều (triều) vua điều (đều) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần”.

Theo thần phả làng Vạn Bảo (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội), Cao Biền có một người vợ tên là Lã Thị Nga (còn gọi là Ả Lã, Ả Lã Thị Nương, Lã Đê nương), theo ông sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ở làng Vạn Bảo dệt lụa và truyền dạy nghề dệt lụa cho dân ở đây, trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Cao Biền về Bắc, bà vẫn ở lại Hà Đông. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Bà Ả Nương sinh ngày 10/8 Âm lịch, mất ngày 25 tháng Chạp. Sau khi bà mất, được thờ làm Thành hoàng làng tại Đền thờ làng Vạn Phúc.
(Trích từ Internet)

Phỏng dịch bài Khuê Oán của Cao Biền

Oán Phòng Khuê

Trần thế vui buồn khó biết thay
Hắc sơn phá trận mới về đây
Hôm nay hiến kế bình nam chiến
Áo trận tối ngày giục giã may!

Lộc Bắc
Jui25

Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Khối Tình Thu

 

Xuân người giấc đẹp chưa xong
Thu ta dìu lá mơ lòng cùng ai
Hồn xanh mộng ước chưa phai
Gợi lòng lưu luyến nhớ hoài mùi hương

Đàn hòa ru khúc đêm trường
Xạc xào lá hát tơ vương cung lòng
Trăng soi đáy mắt hồ trong
Chợt thuyền lá nhẹ khuấy vòng vỡ tan...

Giọt bi lụy cảm dâng tràn
Dòng thu lặng lẽ cùng mang nỗi sầu
Bến tương tư nhớ về nhau
Hai bờ chia cách bóng câu tạ từ

Mộng vàng một cõi riêng tư
Góc chờ vẫn đợi ấy chừ người đâu
Thương vay sương phủ bạc đầu
Canh tàn mộng vỡ chôn sâu khối tình!

Kim Oanh

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2025

Đêm Xuân Trò Chuyện Cùng Má!

(Trà Vinh 1957. Con được 5 tháng tuổi trong bụng Má)

Má ​thương yêu của con ơi.

Một mùa xuân nữa đang trở về với khu vườn đầy màu sắc, chim ca, hoa rộ nở xinh tươi. Đặc biệt xuân nay theo Phật giáo đúng vào mùa Vu Lan, bên Công giáo là Năm Thánh mỗi 25 năm mới đến một lần. 
Má ơi! Giỗ của Má cũng đúng dịp này. Vui quá phải không ba má của con!

Vậy đêm nay má con mình cùng nhau tâm tình ôn lại những ngày đầu đến xứ người nha ba má..

Đã 23 năm má rời xa cũng đã 23 năm con có những giờ phút lặng lẽ, lật lại ký ức và những lưu vật quý báu đối với con.

Ngày đầu tiên má đế Úc, trong phòng ba má con đề 2 bộ Pyjama, 2 chiếc đồng hồ Seiko, Khăn tắm, khăn mặt, kem và bàn chải đánh răng. Riêng má con để thêm quyển nhật ký và cây viết. Má vui mừng hiện trên gương mặt, cầm quyển nhật ký, cây viết là món quà đắc ý, Má cười nói " sao con hiểu ý má vầy" rồi nói với ba "con Oanh ý tứ vậy đó" Má ơi, vì con được má truyền cho con giống má mà, ngày xưa xửa khi vừa lớn, con cũng có 1 quyển nhật ký, chỉ có nó là người bạn tin cậy nhất để mình có thể tâm sự, bộc bạch hết đáy lòng mình phải không má, và nó cũng là tri kỷ là nguồn vui cho mình hy vọng tin yêu.

Tuy nhiên má cao siêu hơn, má ghi chép nhiều điều quý nhất,má ghi chép về gia phả, ngày giờ sanh​, ngày giờ mất của ông bà ngoại, ông bà nội, cô bác cậu dì, họ hàng, ​a​i còn ai mất. Nếu không có, ngày nay ai nói để chúng con biết. Ngoài ra những kết toán sinh hoạt của má hàng ngày. hàng tháng, hàng năm.... năm này qua năm khác, con còn giữ nguyên trong ngăn cặp đây.

Nhưng kết toán gì đây má hỡi, toàn là chi phí cho con cháu, dâu rể, họ hàng, còn kẹt lại ở Việt Nam. Sổ sách của má chi thì nhiều mà thu chẳng bao nhiêu, chỉ với số tiền an sinh xã hội chu cấp vừa đủ, vậy thì sao có dư, thì ra ba má đã chắt chiu, tiện tặn để chu toàn mọi thứ.Từ một thời tuổi trẻ cho đến tuổi già ba má vẫn miệt mài lo lắng, thương yêu, đùm bọc.

Nhìn lại 12 tờ khai sinh, của ba má và 10 đứa con thẳng thớm, được cất kỹ qua bao biến cố chạy loạn và nay đã đến Úc cùng ba má. hồ sơ con bảo lãnh, Sổ thông hành Việt Nam khi đến Úc định cư, giấy nhập cư vào Úc, giấy vào quốc tịch, sổ ngân hàng, thẻ Medicare đều vẹn nguyên.


Đọc lại những quyển tập, ba má đi học Anh Văn nét chữ đẹp đẽ, Khó ai có thể nghĩ đến hai ông bà tóc trắng phau, ngày nào cũng cắp sách đến trường. Con nhớ hoài lời Má nói " tại sao mình muốn con cháu phải học tiếng Việt để không quên cội nguồn, thì tại sao mình không học tiếng Anh để được gần gũi chuyện trò để hiểu con cháu hơn". Ngày ấy con còn chưa được suy nghĩ cấp tiến và tâm lý như ba má vậy.

Má ơi, con sẽ giữ tất cả báu vật của má gửi trao, đến giây phút cuối cuộc đời con, con sẽ trao lại cho hai đứa cháu ngoại của má tiếp tục giữ gìn, những gì má giao phó cho con má hãy yên tâm nha ba má.

Nhìn lại những tấm hình ngày má về với ba, cả một quãng đời sung sướng, vui buồn, tần tảo, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi, tươi tắn, hiền hòa... Những bức hình khi được an lành nơi xứ người, nụ cười rạng rỡ., phúc hậu...tràn đầy tin yêu.

Ba má đã chấp nhận cuộc sống mới dễ dàng, không muốn làm gánh nặng cũng chỉ vì thương con cháu, chúng đang bôn ba vớí cuộc sống cho gia đình nhỏ của các con. Nhìn lại, suy ngẫm lại con rất hãnh diện và lòng tràn đầy sự kính trong thương yêu chân tình của ba má dành cho chúng con.

(Hawthorn 1985, trước ngõ nhà con)

Một chặng cuối cuộc đời hạnh phúc an nhàn vì trách nhiệm và bổn phận làm cha mẹ đã hoàn thành như mong mỏi. Ba đã thanh thản ra đi trong giấc ngủ bình yên. Rồi má thấy ba về nói, ba đã xây nhà mới về đón má cùng đi. và má một lần nữa về với ba trong hạnh phúc ngọt ngào nơi vùng trời mới.

Má ơi, tuy mùa xuân... nhưng giờ đây ngoài trời đang mưa, lòng con cũng mưa .... nhưng những giọt mưa trọn vẹn niềm hạnh phúc vô biên vì được cùng má ba trò chuyện đêm nay.

Sáng mai ba má cùng ăn với con bữa cơm ngon miệng, hy vọng thức ăn con nấu được má chấm điểm trung bình là con mừng hết lớn rồi...hihihi....và giây phút ấm áp này ba má cùng Ông bà con lên đường bình an về nơi căn nhà mới của má ba....

Thuở 15 ba cưới má về
Chu toàn dâu thảo phu thê trọn tình
Mong con rực ánh bình minh
Chống chèo gian khổ gia đình ấm êm
Keo sơn kết chặt nợ duyên
Trước sau như một hương nguyền chẳng vơi
Đến khi nhắm mắt lìa đời
Thủy chung vẹn giữ về Trời có nhau
Ba má dòng suối ngọt ngào
Tấm gương lưu lại đẹp màu sáng soi
23 năm má đã xa rời
Đêm nay con nguyện với lời cầu kinh
Hồng ân huyền nhiệm lung linh
Một đời sống mới Thiên Đình thảnh thơi
Amen!

Thương yêu con gái thứ 9 gửi về Má Ba!

Lê Thị Kim Oanh
Melbourne Lần Giỗ thứ 23. 
24/9/2025

 Mục Lục: Những Bài Văn Khác: Nhấp vào Links









 

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2025

Hành Trình Của Thơ



Thơ đã lên ngôi chốn học đường
Thơ hằng khao khát thuở yêu đương
Thơ vui suốt tuổi trai khờ khạo
Thơ ủ trong tim gái nõn nường

Thơ vẫn mênh mang lời giản dị
Thơ nào trau chuốt ý văn chương
Thơ luôn nung nấu tình non nước
Thơ mãi âm vang nghĩa xóm phường

Thơ lúc đăng trình theo lý tưởng
Thơ mùa binh lửa giữ quê hương
Thơ reo đuổi giặc ngoài biên ải
Thơ giục hành quân khắp chiến trường

Thơ xót xa ai nằm nghĩa địa
Thơ ngùi thương kẻ gối phong sương
Thơ đau mối hận ngày vong quốc
Thơ giận lòng tham lũ bạo cường

Thơ buổi lên đường đi tị nạn
Thơ đời xa xứ sống tha phương
Thơ luôn khắc khoải tuồng dâu bể
Thơ vẫn u hoài cảnh nhiễu nhương

Thơ nguyện dân tình thôi thống khổ
Thơ cầu đất nước xóa tai ương
Thơ xin thâm tạ người tri kỷ
Thơ ạ, yêu thơ đến lạ thường!

Nguyễn Kinh Bắc


Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2025

Phế Địa 廢 地 - Trần Văn Lương 陳 文 良

 

Dạo: 

 Quê nhà giờ đã tan hoang,
Còn đâu chỗ để phượng hoàng dừng chân.

Cóc cuối tuần:

廢 地
(懷念永亡的故土)

春 風 久 渡 江,
祖 廟 早 成 荒.
獄 室 肝 腸 折,
家 鄉 血 淚 滂.
泥 中 蟠 赤 子,
殿 裏 據 豺 狼.
搬 撤 梧 桐 樹,
焉 能 住 鳳 凰.
陳 文 良

Phế Địa

(Hoài niệm vĩnh vong đích cố thổ)

Xuân phong cửu độ giang,
Tổ miếu tảo thành hoang.
Ngục thất, can tràng chiết,
Gia hương, huyết lệ bàng.
Nê trung bàn xích tử,
Điện lý cứ sài lang.
Ban triệt ngô đồng thụ,
Yên năng trụ phụng hoàng.

Trần Văn Lương

Dịch nghĩa:

Đất Bị Bỏ Hoang

(Để nhớ về một quê cũ đã vĩnh viễn mất đi)

Gió Xuân đã (bỏ đi) qua sông từ lâu,
Đền thờ Tổ đã thành hoang phế.
(Chốn) ngục tù, ruột gan tan nát.
(Ngay) quê nhà, nước mắt máu tràn đầy.
Trong bùn lầy, bách tính nằm co quắp,
Trong cung điện, lũ sài lang chiếm cứ.
Cây ngô đồng đã bị mang bỏ hết đi chỗ khác,
Làm sao chim phượng hoàng có thể đến ở. (*)

Ghi chú:
(*) Cây ngô đồng và chim phượng:
1. - Trang tử Nam Hoa Kinh, thiên Thu Thủy:
"夫鵷鶵,發於南海而飛於北海,非梧桐不止,
非練實不食,非醴泉不飲."
Âm:
Phù uyên sồ, phát ư nam hải nhi phi ư bắc hải,
phi ngô đồng bất chỉ, phi luyện thực bất thực,
phi lễ tuyền bất ẩm.
Nghĩa:
Cho nên Uyên Sồ (một tên khác của chim phượng)
đi từ biển Nam tới biển Bắc, không phải cây ngô đồng
thì không đậu, không phải hạt luyện (bamboo fruit hay
bamboo rice) thì không ăn, không phải suối ngọt thì không uống.

2.- Ngụy Thư, Bành Thành Vương Hiệp Truyện (魏書,彭城王勰傳):
"鳳凰非梧桐不棲"
Âm:
Phượng Hoàng phi ngô đồng bất thê.
Nghĩa:
Chim phượng hoàng không phải ngô đồng thì không đậu

Phỏng dịch thơ:

Mảnh Đất Bỏ Hoang

(Nhớ về một quê hương đã mất)

Gió Xuân đã bỏ làng,
Xã tắc cũng tan hoang.
Ngục thất, can tràng nẫu,
Gông cùm, máu lệ loang.
Điêu tàn thân bách tính,
Rủng rỉnh túi sài lang.
Vắng bóng tàng cây đợi,
Về đâu hỡi phượng hoàng?

Trần Văn Lương
Madeira,Portugal, 9/2025

Lời than của Phi Dã Thiền Sư:

Than ôi!
Giang san cẩm tú cha ông để lại đã và đang bị tàn phá tan hoang. Nền văn hóa, luân lý, đạo đức của con người cũng không còn nữa.
Chim phượng hoàng dù có muốn ghé qua cũng
chẳng tìm đâu ra cây ngô đồng để đậu.
Hỡi ơi!

***

Đất Hoang

(Để nhớ về quê cũ đã mất)

Gió xuân thôi qua sông.
Đền thờ Tổ bỏ hoang.
Ngục tù lòng tan nát.
Quê hương lệ máu tràn.
Bùn đất vùi trăm họ.
Cung điện dậy sài lang.
Cây ngô đồng tróc gốc.
Tìm đâu tổ phượng hoàng?


Mùi Quý Bồng
(Phóng tác)
09/11/2025
***
Đất Hoang

(Nhớ về quê hương đã mất)

Gió xuân bỏ xa phương
Đền Tổ lắm đoạn trường
Ngục tù tâm nhừ nát
Lệ máu nhuộm quê hương
Bùn lầy dìm trăm họ
Cung điện giặc nhiễu nhương
Cây ngô đồng gục ngã
Phượng Hoàng biết đâu nương?


Kim Oanh
 
(Phỏng Dịch)
18.9.2025

Thứ Hai, 15 tháng 9, 2025

Đồng Phục Không Quân Việt Nam Cộng Hòa 1974 - Bác Sĩ Phạm Hiếu Liêm

Hôm nay bà xã tui lục lọi tìm Áo ấm, Jackets, Parkas tích lũy từ hồi hai đứa con còn ở nhà để cho hội từ thiện giúp người nghèo và vô gia cư cần áo ấm. 
Trong một closet không ai dùng từ lâu, bà xã lôi ra đồng phục Không Quân VNCH của chàng Y Sĩ Phi Hành may 51 năm trước (1974). Caduceus rõ ràng là Cây Gậy với Một Con Rắn, mời quý vị xem


Bác Sĩ Phạm Hiếu Liêm 

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

Tư Biên 思邊 Lý Bạch


Khi đọc bài thơ Tư Biên của Lý Bạch, cảm thương cho vợ các binh sĩ vào thời chiến tranh trước đây, xúc động nên dịch bài thơ này:

思邊 Tư Biên

Lý Bạch

去 年 何 時 君 別 妾
Khứ niên hà thời quân biệt thiếp
南 園 綠 草 飛 蝴 蝶
Nam viên lục thảo phi hồ điệp
今 歲 何 時 妾 憶 君
Kim tuế hà thời thiếp ức quân
西 山 白 雪 暗 秦 雲
Tây sơn bạch tuyết ám Tần vân
玉 關 去 此 三 千 里
Ngọc quan khứ thử tam thiên lý
欲 寄 音 書 那 可 聞。
Dục ký âm thư na khả văn.

Dịch nghĩa:

Nhớ Biên Cương

Năm rồi ngay giờ này, chàng và thiếp rời xa nhau
Khi đó ở vườn nam, cỏ xanh biếc những cánh bướm vờn bay
Năm nay cũng vào lúc chia xa ấy thiếp nhớ tới chàng
Tuyết trắng phủ kín núi Tây. Trời Tần mây xàm xịt
Ngọc Quan nơi chàng đến đó cách xa ba ngàn dặm
Muốn nhắn nhủ mấy lời, không biết chàng có nghe thấy chăng

Dịch Thơ:

Nhớ Biên Cương

Giờ này năm trước chia tay
Vườn Nam cỏ biếc bướm bay thành đàn
Năm nay thiếp lại nhớ chàng
Mây Tần xám xịt tuyết tràn núi tây
Ba ngàn dặm cách đó đây
Đôi lời gửi gắm có hay hỡi chàng.

Quên Đi
***
Nhớ Biên Cương

Vừa tròn năm đã biệt ly
Vườn Nam bướm lượn xanh rì cỏ hoang
Năm này lại tưởng nhớ chàng
Mây Tần tuyết trắng ngút ngàn non Tây
Ba ngàn dặm cách xa đây
Thư lời nhắn nhủ có hay chăng là


Kim Phượng
***
Nhớ Biên Cương

Chàng và thiếp chia tay năm trước
Nơi vườn Nam cỏ mượt bướm bay
Chạnh lòng thương thiếp nhớ năm này
Mây Tần xám non tây trắng tuyết
​D​ặ​m ba ngàn cách biệt Ngọc Quan
​M​ong lờ​i thư ​thấ​u đến ta​i chàng?

Kim Oanh
***
Nơi Biên Ải

Chàng Thiếp xa ,giờ này năm trước
Nơi vườn Nam cỏ biếc bướm bay
Thương chàng lại nhớ năm này
Núi Tần tuyết trắng phủ đầy trời tây
Ba ngàn dậm đó đây cách biệt
Gởi đôi lời chàng biết hay chăng ?

Songquang
20250904
***
Nhớ Biên Cương

Nhớ chăng, chàng hỡi, lúc chia tay
Vườn cỏ xanh rờn, bướm lượn bay
Nay thiếp nhớ chàng khi tuyết phủ
Chập chùng trắng xóa đỉnh non tây
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặm
Tin gởi cho chàng sao nhắn đây?

Phương Hà 
***
Nhớ Biên Cương

1-

Năm ngoái khi nao mình giã biệt?
Vườn nam bướm lượn cỏ xanh biếc
Năm nay đâu lúc thiếp nhớ chàng?
Núi tây tuyết trắng, xám mây Tần
Ngọc quan nơi đó xa ngàn dặm
Muốn gởi thư nhà nhận được chăng?

2-

Mùa năm trước, khi nao giã biệt?
Xuân bướm bay vườn biếc lang thang
Mùa nay, lúc thiếp nhớ chàng?
Núi tây tuyết trắng, che ngang mây Tần
Ngọc quan muôn dặm tử phần*
Tâm thư muốn gởi, khó khăn thôi đành!

Lộc Bắc
Sept25
*tử phần: ý nói quê hương

***
Tư Biên Là Nhớ Biên Cương

Bữa nay năm ngoái thiếp xa chàng
Cỏ biếc vườn Nam bướm lượn sang
Độ ấy bao năm mình có thấy
Trời Tây Tần lĩnh tuyết giăng ngang 
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặm
Tin nhắn thơ từ vẫn bặt tăm…!

Mai Xuân Thanh
Silicone Valley September 05, 2025
***

Đây là bài thất ngôn cổ thi của Thi Tiên Lý Bạch, làm vào năm Thiên Bảo thứ 2 đời Đường Huyền Tông. Bài thơ gồm có 6 câu 42 chữ, tả lại lòng tưởng nhớ của một cô phụ đất Tần (Tràng An) nhớ về vùng biên tái xa xôi, nơi mà người chinh phu chinh chiến lâu ngày vẫn chưa trở lại. Nhớ thương trong nỗi niềm tuyệt vọng vì cũng tuyệt luôn cả đường giao thông và thư tín!

思邊                            Tư Biên

去 年 何 時 君 別 妾? Khứ niên hà thời quân biệt thiếp?
南 園 綠 草 飛 蝴 蝶. Nam viên lục thảo phi hồ điệp.
今 歲 何 時 妾 憶 君? Kim tuế hà thời thiếp ức quân?
西 山 白 雪 暗 秦 雲. Tây sơn bạch tuyết ám Tần vân.
玉 關 去 此 三 千 里, Ngọc quan khứ thử tam thiên lý,
欲 寄 音 書 那 可 聞  Dục ký âm thư nả khả văn.
李白                            Lý Bạch

* Chú thích:
- Hà Thời 何 時 là Nghi vấn tự, có nghĩa :Khi nào, Lúc nào ?...
- Nam Viên 南 園 là từ phiếm chỉ, chỉ chung về các khu vườn cỏ, vườn hoa...
- Lục Thảo Phi Hồ Điêp 綠 草 飛 蝴 蝶 là Bướm bay trên thảm cỏ xanh; ý chỉ "Mùa Xuân".
- Tây Sơn 西 山 là Núi Tây, chỉ vùng cao nguyên Thanh Tạng của nước Thổ Phồn ngày xưa, với quanh năm tuyết phủ.
- Tần Vân 秦 雲 là Mây ở đất Tần, Tần là đất của vùng Thiểm Tây, nơi có kinh đô Tràng An, mà cũng là nơi của người chinh phụ đang ở.
- Ngọc Quan 玉 關 là Ngọc Môn Quan, cửa ải thông về hướng Tây bắc nằm ở biên tái tỉnh Cam Túc, là cửa ải nối liền với vùng Tây vực.
- Câu cuối: Dục Ký Âm Thư 欲 寄 音 書 là Muốn gởi thư hay nhắn tin...Nả Khả Văn 那 可 聞 là Điều đó làm sao mà nghe thấy được!? (Là Không thể có được!).

* Nghĩa Bài Thơ:

Nhớ Về Vùng Bìên Tái

Năm trước, lúc nào thì chàng rời xa thiếp ? Đó là lúc bướm trong vườn đang bay lượn trên thảm cỏ xanh ! (là mùa xuân).
Năm nay, lúc nào thì thiếp đang nhớ chàng đây ? Chính là lúc mùa đông, khi tuyết trắng ở các dãy núi tây đang che mờ cả mây của đất Tần (là đất Tràng An mà thiếp đang ở đây).
Từ đây đến Ngọc Môn Quan phải mất ba ngàn dặm đường, nên muốn nhắn tin hay gởi thư đều không thể được gì cả ! (Vì có ai đi đến đó đâu mà gửi thư hay nhắn tin! Cho nên đành nhớ thương trong đau buồn tuyệt vọng mà thôi !).

* Diễn Nôm:

Tư Biên


Năm trước khi nào chàng biệt thiếp?
Vườn nam cỏ biếc bướm vờn bay.
Năm nay lúc nào thiếp nhớ chàng?
Núi Tây tuyết trắng mờ Tràng An.
Ngọc Môn Quan cách ba ngàn dặm,
Thư từ tin nhắn chẳng ai kham!

Lục bát:

Chia tay năm trước tiễn chàng,
Xuân tươi cỏ biếc bướm vàng lượn bay.
Năm nay đông đến nhớ ai...
Đất Tần mây phủ núi Tây lạnh lùng.
Ngọc Môn Quan cách nghìn trùng,
Tin thư vắng bặt não nùng lòng đây!

Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Nhất Tâm…

 

Hè chia tay lệ mặn môi
Nỗi đau bao phủ cả trời khóc theo
Muông chim cũng bặt tiếng reo
Phượng chưa kịp trổ úa nhiều sắc bông
Ve than tức tưởi não lòng
Quay đi đành đoạn còn mong chi chờ
Chôi vùi tuổi mộng ngây thơ
Hết rồi một thuở khù khờ môi hôn
Lấy ai những lúc giận hờn
Lời yêu chưa cạn tình buồn cao xa
Oằn mình chôn chặt đời hoa
Nhất dạ gắng sức thứ tha lỗi người
Bao mùa đau khổ dần rơi
Bấy mùa tĩnh lặng về nơi đứt lìa

Xóa sạch tỳ vết đã ghi

Tâm buông bỏ cả ... thân thì nhẹ bay!

Kim Oanh

Thứ Ba, 9 tháng 9, 2025

Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 1, 2 & 3 青青水中蒲其一二 & 三 - Hàn Dũ (Trung Đường)

  



Hàn Dũ 韓愈 (768-824) tự là Thoái Chi 退之, sinh quán ở Nam Dương nay thuộc tỉnh Hồ Bắc. Tổ phụ là người huyện Xương Lê nên ông thường tự xưng là Hàn Xương Lê. Ông sinh năm 768, mất năm 824 và do đó được xếp vào những tác gia của Trung Ðường. Mồ côi cha mẹ từ năm ba tuổi, thuở nhỏ ông có một cuộc sống rất cực khổ, sống chung với anh và khi anh chết thì ông được người chị dâu dưỡng dục cho đến khi thành tài. Tình cảm sâu đậm giữa ông và gia đình người anh sau này đã được ông kể lại trong bài Tế thập nhị lang văn bất hủ. Ông rất thông minh, mới hai mươi bốn tuổi đã đỗ tiến sĩ. Hoạn lộ bắt đầu bằng chức Thôi quan cho các Tiết độ sứ, rồi được gọi về triều giữ chức Tứ môn bác sĩ, sau thăng lên Ngự sử. Không rõ vì lẽ gì, ông bị Dục Tông biếm đi làm huyện lệnh ở một huyện nhỏ nhưng chỉ ít lâu sau lại được triệu về kinh giữ chức Quốc tử giám bác sĩ. Khi tể tướng Bùi Ðộ và Lý Sóc (Lý Tố) vâng lệnh cầm quân dẹp loạn Hoài Tây, ông cũng đi theo giữ chức Hành quân tư mã. Dẹp loạn thành công, Ðường Hiến Tông sai ông viết bài văn Bình Hoài Tây bi. Bài văn làm tăng thêm sự rạn nứt giữa Bùi Ðộ và Lý Sóc vì Hàn cho rằng tất cả công lao đều thuộc về Bùi Ðộ. Ðiều này có lẽ cũng dễ hiểu vì giữa hai phái bảo thủ và cách tân đang dằng co giữa triều đình lúc bấy giờ, Hàn là người của phe bảo thủ. Ông được thăng Hình bộ thị lang sau đó.

Ðường Hiến Tông vào những năm cuối đời rất tin đạo Phật. Nghe nói trong Pháp Môn Tự có thờ một đốt ngón tay của đức Phật trong một tòa tháp, cứ 30 năm mới mở ra một lần cho mọi người vào chiêm bái, Hiến Tông lập tức cho người rước đốt xương đó vào cung thờ phụng, sau lại rước ra chùa cho mọi người xem. Những cuộc đưa rước, chiêm bái của ông hết sức linh đình, xa xỉ. Vua tin thì quan viên cũng hùa theo, một phong trào sùng bái xương Phật lan tràn khắp nơi, người giàu thì đua nhau quyên tiền hương hỏa, người nghèo thì chầu chực xin những nén hương trong chùa tự đốt phỏng thân thể để chứng tỏ lòng thành kính.

Hàn Dũ phóng bút viết bài Gián nghinh Phật cốt biểu (còn gọi là Luận Phật cốt biểu) dâng lên can gián Hiến Tông, lời lẽ rất đanh thép, cứng rắn, có đoạn khuyên vua nên ném xương Phật vào nước lửa, Phật có giáng tội ông xin chịu hết. Hiến Tông vô cùng thịnh nộ, đã định đem ông ra chém, may nhờ có nhiều người can gián ông mới thoát chết, chỉ bị đày đến Triều Châu, thuộc Quảng Tây ngày nay. Ðây cũng chính là nơi ông để lại bài Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương và bài Tế ngạc ngư văn nổi tiếng. Tế ngạc ngư văn đã khiến ông được Hiến Tông phục chức cho trở lại kinh đô giữ chức Quốc tử giám tế tửu, sau thăng Binh bộ thị lang.

Với bài Luận Phật cốt biểu, ta phải nghĩ rằng những chuyện mê tín dị đoan chắc chẳng thể nào vào tai Hàn. Nhưng ông lại chết vì uống thuốc trường sinh. Có lẽ đây là do ảnh hưởng của người cháu là Hàn Tương, một tín đồ của Ðạo gia, mà truyền thuyết cho rằng là một trong Bát Tiên.

Về mặt văn học, Hàn để lại ít thơ nhưng là một văn gia kiệt xuất của Ðường triều. Là người đứng đầu trong Ðường Tống bát đại văn gia, ông chủ trương từ bỏ lối văn biền ngẫu lời đẹp mà ý rỗng. Ông viết rất nhiều bài văn gây ảnh hưởng lớn trong văn đàn thời đó. Bài Tống Lý Nguyện quy Bàn Cốc tự và bài Tế thập nhị lang văn của ông được dùng để làm ví dụ về văn phong giản dị, ý tứ chân thành, trong nhiều tuyển tập cổ văn Trung Việt.

Ba bài ngũ ngôn tứ tuyệt dưới đây tóm lược nỗi lòng sâu thăm thẳm của người vợ sống xa chồng ở tuổi đôi mươi. Mời các bạn thưởng thức và góp ý.


Nguyên tác          Dịch âm

青青水中蒲其一 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 1


青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ,
下有一雙魚 Hạ hữu nhất song ngư.
君今上隴去 Quân kim thượng Lũng khứ,
我在與誰居 Ngã tại dữ thuỳ cư?

青青水中蒲其二 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 2

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ,
長在水中居 Trường tại thuỷ trung cư.
寄語浮萍草 Ký ngữ phù bình thảo,
相隨我不如 Tương tuỳ ngã bất như.

青青水中蒲其三 Thanh Thanh Thủy Trung Bồ kỳ 3

青青水中蒲 Thanh thanh thuỷ trung bồ,
葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thuỷ.
婦人不下堂 Phụ nhân bất hạ đường,
行子在萬里 Hành tử tại vạn lý.

Chú giải:

Ba bài này Hàn Dũ viết lúc 25 tuổi gửi tặng vợ, tỏ niềm thông cảm với nỗi cô quạnh của nàng. Bồ: Cỏ bồ, thứ cỏ rất nhẹ.

Dịch thơ

Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 1


Bồ trong nước xanh rờn
Cặp cá lội an nhàn
Nay chàng ở đất Lũng
Thiếp phải sống cô đơn.

Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 2

Bồ trong nước xanh rờn
Bồ nước tợ keo sơn
Nhắn cánh bèo trôi nổi
Ta theo chẳng kịp chàng

Cỏ Bồ Xanh Trong Nước kỳ 3

Bồ trong nước xanh rờn,
Lá ngắn chẳng bỏ nước.
Nữ nhi không xuống đường
Theo chàng vạn dặm được!


Lời bàn

Chỉ cần đọc ba bài này cũng đủ biết chân tình của Hàn Dũ đối với vợ. Ông là thi sĩ thời Đường, sau Lý Thương Ẩn và Nguyên Chẩn, làm nhiều thơ ca tụng vợ; rất may vợ ông đã dẫn ông đi trọn đường đời. (Không bạc như bà Cò, đã để ÔC đi một mình trên một đoạn đường có thể dài tới 20 năm).
Rất thương mến. Rất chân thành. Rất keo sơn.
 
 Con Cò
***
***
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước

Kỳ 1

Cỏ Bồ trong nước xanh xanh
Tung tăng đôi cá lượn quanh lững lờ
Nay chàng đất Lũng mịt mờ
Còn thiếp ở lại bơ vơ ai cùng.

Kỳ 2

Cỏ Bồ trong nước xanh màu
Trầm mình sống đã từ lâu nơi này
Nhắn với bèo dạt trôi hoài
Ta đây chẳng thể miệt mài như ngươi.

Kỳ 3

Cỏ Bồ trong nước xanh xanh
Lá ngắn không vượt thôi đành náu nương
Nữ nhi chẳng thể lên đường
Có tìm nhau được dặm trường chàng xa

Kim Oanh
***
Bồ Bồ Xanh Trong Nước

Kỳ 1

Bồ bồ trong nước mọc xanh
Đôi cá thanh thản bơi quanh lượn lờ
Lũng Tây chàng ngụ bây giờ
Còn em ở lại bơ vơ một mình


Kỳ 2

Bồ bồ trong nước xanh tươi
Đã sống sung mãn bao mươi năm dài
Rong bèo trôi dạt miệt mài
Như ta không giống hình hài với mi


Kỳ 3

Bồ bồ trong nước mọc xanh
Ngắn lá nên chỉ mỏng manh là là
Phận gái không ra khỏi nhà
Chàng thì vạn dặm cách xa muôn trùng


Thanh Vân
***
Cỏ Bồ Xanh Trong Nước.

Kỳ 1


Trong nước bồ xanh lơ,
Dưới đôi cá lượn lờ.
Chàng nay lên đất Lũng,
Thiếp ở với ai cơ?


Kỳ 2.

Bồ trong nước xanh mầu,
Nhà ở đây từ lâu.
Nhắn gửi bèo trôi nổi,
Theo nhau có được đâu.


Kỳ 3.

Bồ xanh xanh dưới nước,
Lá ngắn không ngoi được.
Vợ chẳng thể xa nhà,
Chàng muôn dậm cất bước.

Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Aug. 30/2025.

***
Góp Ý Cho Bài THANH THANH THUỶ TRUNG BỒ Của Hàn Dũ.

Ba bài thơ của Hàn Dũ, đều bắt đầu bằng cái tựa: thơ ngũ ngôn, rất dễ thương, không có chữ khó, nói về nỗi lòng của người vợ khi phải xa chồng.

Cỏ Bồ có 2 loại chính là Hương Bồ (hay Thuỷ Hương Bồ) và Xương Bồ.
* Thủy Hương Bồ không thơm vì hoa mà vì củ.
- Hương Bồ, Typha Ceae, cỏ lác, bồn bồn.
- Hương Bồ lá hẹp, Typha Angustifolia, thủy hương, bồ hoàng.
- Hương Bồ lá rộng, Typha Latifolia, cũng gọi là bồn bồn.

*Xương Bồ, có
-Thuỷ Xương Bồ (Acorus Calamus và Acorus Verus)
-Thạch Xương Bồ (Acorus Gramineus)

Mấy loại này không biết mình gọi là gì.

Trong bài thơ Nguyên Chẩn tặng Tiết Đào có câu “Xương Bồ hoa phát ngũ vân cao “. Bồ này chắc Thủy Xương Bồ.
Trong truyện Thạch Nữ Giá Bồ Lang của Hư Chu, kề về cuộc hôn nhân của cô gái họ Thạch với chàng trai họ Bồ trên núi Tản Viên, thì Bồ này chắc Thạch Xương Bồ.

Cây Bồ trong thơ của Hàn Dũ, mọc dưới nước, phải là Thuỷ Hương Bồ hay Thủy Xương Bồ, nhưng không có loại nào chìm trong nước vì lá ngắn như trong bài 3.

Ba bài thơ này, BS dịch theo lục bát, coi êm tai và lãng mạn hơn.

Cỏ Bồ Xanh Xanh Trong Nước

Kỳ 1:

Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Có đôi cá lượn loanh quanh vui vầy,
Nay chàng đi tới Lũng tây,
Ai người cùng thiếp ở đây bây giờ?


Kỳ 2:

Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Cả đời phải chịu ngâm mình một nơi,
Nhắn lời với đám bèo trôi,
Rằng ta chẳng thể theo người được đâu.

Kỳ 3:

Cỏ bồ trong nước xanh xanh,
Lá kia quá ngắn nên đành chìm sâu,
Đàn bà không thể đi đâu,
Chàng xa vạn dặm tìm nhau được nào.


Bát Sách.
(Ngày 02/09/2025)
***
Thủy hương bồ (Typha augustifolia, tên thông tục quen biết với người xứ Huế là bồn bồn.)
Cỏ Bồ là loại cỏ hoang dại mọc ở bãi bùn mé sông, ao hồ, ruộng; mọc ở nhiều nơi trên thế giới. Gần đây cây này được dùng như một loại rau có giá trị được nhiều người trong nước ưa chuộng và được trồng tỉa. Ở Canada nhiều người ở ven sông cũng thích và tìm kiếm loại cỏ này làm thực phẩm.

Xin mời xem 2 clips theo links sau đây:
https://www.youtube.com/watch?v=2ZPfZIXCjF8
https://www.youtube.com/watch?v=2vFNQh-sMn8

Giống như hoa sen cỏ bồ mọc trong bùn nhưng không ‘hôi tanh mùi bùn’. Qua bài này Hàn Dũ mượn cỏ bồ để tự ví mình

Phỏng dịch ba bài Thanh thanh thủy trung bồ của Hàn Dũ:

Xanh xanh trong nước cỏ bồ


Kỳ 1


Trong nước xanh cỏ bồ
Phiá dưới lượn song ngư
Nay chàng đi đất Lũng
Sống cùng ai bây giờ?


Kỳ 2


Trong nước xanh cỏ bồ
Luôn tại sông gần bờ
Nhắn với lục bình nổi
Trôi theo chẳng được như!


Kỳ 3


Trong nước xanh cỏ bồ
Lá ngắn khôn rời nước
Phụ nữ chẳng ra đường
Người thì muôn dặm lướt


Lộc Bắc

***
Nguyên tác:     Phiên âm:                          Dịch thơ:

青青水中蒲     Thanh Thanh Thủy Trung Bồ


三首-韓愈 Tam Thủ - Hàn Dũ Bồ             Bồ Xanh Trong Nước

其一 Kỳ 1

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ      Bồ bồ xanh trong nước,
下有一雙魚 Hạ hữu nhất song ngư              Đôi cá lội khoan thai.
君今上隴去 Quân kim Thượng Lũng khứ   Chàng đã đi Thượng Lũng,
我在與誰居 Ngã tại dữ thùy cư                   Em biết sống cùng ai?

其二 Kỳ 2

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ   Bồ bồ xanh trong nước,
長在水中居 Trường tại thủy trung cư      Năm tháng sống nơi này.
寄語浮萍草 Ký ngữ phù bình thảo          Nhắn với bèo trôi dạt,
相隨我不如 Tương tùy ngã bất như         Hãy cùng ở lại đây.


其三 Kỳ 3

青青水中蒲 Thanh thanh thủy trung bồ     Bồ bồ xanh trong nước,
葉短不出水 Diệp đoản bất xuất thủy         Lá ngắn nước không vượt.
婦人不下堂 Phụ nhân bất hạ đường          Đàn bà không bỏ nhà,
行子在萬里 Hành tử tại vạn lý                  Vạn dặm chàng đi xa.

Đây là ba bài ngũ ngôn theo thể nhạc phủ mà Hàn Dũ viết năm 793 khi còn trẻ, sống xa vợ, bày tỏ sự thông cảm với nỗi cô đơn của nàng. Mộc bản bài thơ có chép trong các sách:
Biệt Bổn Hàn Văn Khảo Dị - Đường - Hàn Dũ 别本韩文考异-唐-韩愈
Đông Nhã Đường Xương Lê Tập Chú - Đường - Hàn Dũ 东雅堂昌黎集注-唐-韩愈
Nhạc Phủ Thi Tập - Tống - Quách Mậu Thiến 乐府诗集-宋-郭茂倩

Ghi chú:

Bồ蒲 còn gọi là bồ bồ hay thủy xương bồ, tên khoa học Acorus Calamus, một giống cây thân cỏ, mọc trong ao và đầm lầy, cao đến 2 mét, lá dài và nhọn, nở hoa màu vàng nâu (còn được gọi là cattail) vào mùa hè.
Thanh thanh: lấy cảm hứng từ hình ảnh những cây bồ bồ xanh mướt trong nước.
Song ngư: ngày xưa, hai con cá được dùng để tượng trưng cho thư tín, ẩn dụ cho nỗi cô đơn khi vợ chồng xa cách nhau.
Thượng Lũng: địa danh trên dãy núi Lũng Sơn, xưa là nơi biên giới phía Tây của Trung Hoa, nay là Lũng Châu tỉnh Cam Túc, có nơi nói là Lũng Tây tỉnh Thiểm Tây.
Ký ngữ: nói ẩn dụ, bèo rong dưới nước có thể ở bên nhau và nương tựa vào nhau
Phù bình: chỉ loại bèo rong xanh nổi trôi trên mặt nước
Tương tùy: đồng hành, tùy thuộc nhau.
Bất như: không giống nhau, không thể so sánh được.
Diệp đoản: lá ngắn chỉ lá ngắn của cây bồ bồ, không thể mọc trên mặt nước, ẩn dụ cho việc không thể cùng chồng ra khỏi nhà.
Xuất thủy: ra khỏi mặt nước, ở đây ý nói rời bỏ cuộc sống trong nước.
Phụ nhân: người phụ nữ, đàn bà.
Bất hạ đường: không thể rời gian nhà chính, không đi ra khỏi nhà một mình.
Hành tử: người đàn ông đang đi xa nhà.

Dịch nghĩa:

Thanh Thanh Thủy Trung Bồ  Bồ Bồ Xanh Trong Nước

Kỳ 1

Thanh thanh thủy trung bồ      Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Hạ hữu nhất song ngư             Bên dưới có một cặp cá bơi.
Quân kim Thượng Lũng khứ  Nay chàng đã đi Lũng Tây,
Ngã tại dữ thùy cư                  Em ở lại nhà biết sống cùng ai?

Kỳ 2

Thanh thanh thủy trung bồ    Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Trường tại thủy trung cư       Sống lâu dài tại đây.
Ký ngữ phù bình thảo           Nhắn với cánh bèo trôi dạt,
Tương tùy ngã bất như         Ta chẳng nổi trôi như ngươi được.

Kỳ 3

Thanh thanh thủy trung bồ    Cây bồ xanh xanh mọc trong nước,
Diệp đoản bất xuất thủy        Lá ngắn không ra khỏi nước được.
Phụ nhân bất hạ đường         Đàn bà không được ra khỏi nhà,
Hành tử tại vạn lý                 Người ra đi giờ xa ta vạn dặm.

Green Calamus by Han Yu

Green calamus grows in the water, and beneath it swims a pair of fish.
Now you are traveling far to Longzhou, with whom shall I live here?
Green calamus grows in the water, and it has always lived here.
A message to the drifting duckweed: I would rather you stay with me all the time
Green calamus grows in the water, its leaves so short that they cannot leave the surface of the water.
Women often find it difficult to leave the house, and the one who travels is thousands of miles far away.

31-8-2025
Phí Minh Tâm

Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

Vu Lan Nguyện Cầu!

 

Cho con ngày tháng nằm nôi
Dạy con chập chững vào đời ấm êm
Cho con giấc ngủ hồn nhiên
Dạy con nuôi dưỡng tâm hiền thành nhân

Dạy con bước đi vững vàng
Cho con hạnh phúc thanh nhàn bình yên
Dạy con buông bỏ lụy phiền
Cho con công đức thiêng liêng cao vời!

Vu Lan kính gửi đôi lời
Nguyện cầu Ba Má trên Trời thảnh thơi!

Kim Oanh

Vu Lan 2025




 
 

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2025

Không Anh

 

Đêm thâu quạnh quẽ vườn nhà
Soi trăng tìm bóng dẫu là mình em
Thương  người dầm dãi ngoài biên
Dặm trường cách trở tận biền rừng xa

Thời loạn phủ lấy đời hoa
Còn đâu dáng ngọc mượt mà như ai
Hết thời xanh mướt tóc mai
Canh tàn gối chiếc đêm dài mộng du

Ai đi vào chốn mịt mù
Người ở như lá úa thu viú cành
Trần gian vô nghĩa không anh
Thơ lòng huyết lệ tuôn thành bất ngôn

Anh người lính chiến mãi còn
Là vì Sao Sáng xóa buồn đời em!

Kim Oanh 

Thứ Hai, 1 tháng 9, 2025

Mãi Còn Thương - Khôn Nhòa

 

Bài Xướng:

Mãi Còn Thương

Bên song héo hắt lạnh hơi sương
Quạnh vắng mênh mông lặng lẽ buồn
Tiễn biệt người đi hồn mộng tưởng
Vấn vương kẻ ở dạ hoài vương
Từng đêm ôm bóng hương mùi nhớ
Mỗi khắc mơ hình… ảo ảnh suông
Dẫu biết gặp nhau lòng rất ngượng
Nhưng tim in mãi dáng người thương.


Kim Oanh
***
Bài Họa:
Khôn Nhòa

Trước cửa lạnh lùng những giọt sương
Trong đêm rớt nhẹ …thấy phiêu buồn
Mùi hương gợi lắm niềm mơ tưởng
Cảnh vật gây nhiều nỗi vấn vương
Em có sầu đau tuôn lệ thảm?
Anh hoài nhung nhớ ngó trăng suông
Vẫn mong gặp lại người năm cũ
Ký ức khôn nhoà bóng mến thương


songquang
20250831

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2025

Mãi Còn Thương

 

Bên song héo hắt lạnh hơi sương
Quạnh vắng mênh mông lặng lẽ buồn
Tiễn biệt người đi hồn mộng tưởng
Vấn vương kẻ ở dạ hoài vương
Từng đêm ôm bóng hương mùi nhớ
Mỗi khắc mơ hình… ảo ảnh suông
Dẫu biết gặp nhau lòng rất ngượng
Nhưng tim in mãi dáng người thương.

Kim Oanh

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2025

Dễ Thương!

 

Đang ngồi nhâm nhi cafe trong backyard thì thấy chú hay cô chim này bay tới đậu trước mặt nên móc phone ra chụp thôi!
Chim nhỏ xíu, 4cm. Dễ thương! Không hại ai bao giờ! Bảo đảm 100% 
(Ảnh: An Vui)


(Kim Oanh đề thơ từ ảnh, tặng An Vui) 

Chủ Nhân Và Khách Nhỏ

Khách nhỏ chờ đợi từ lâu
Chủ nhân xin hãy mau mau ra vườn
Khách nhỏ đây rất dễ thương
Cà phê thơm phức tỏa hương gọi mời
Chủ Khách tâm định sẵn rồi
Cùng nhau thưởng thức tuyệt vời... Cà phê!
Hihihi....

Kim Oanh


Hình Ảnh: An Vui
Thơ: Kim Oanh




Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2025

Giọt Sầu Mưa Ngâu...

  

Mỗi giọt mưa rơi mỗi giọt sầu
Mỗi làn sương phủ mỗi niềm đau
Mỗi đêm chờ sáng mỗi trằn trọc
Mỗi phút giây chờ mỗi nhớ nhau

Mỗi nhịp cầu Ô mỗi cách ngăn
Mỗi mùa Ngâu đến mỗi dùng dằng
Mỗi lần níu giữ mỗi lần vuột
Mỗi độ trăng treo mỗi trở trăn

Mỗi kỷ niệm xưa mỗi giấc nồng
Mỗi canh chìm đắm mỗi hoài trông
Mỗi hình bóng cũ mỗi lưu luyến
Mỗi nhớ ngập lòng ...mỗi khắc mong!

Kim Oanh
Mùa Ngâu 2025

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Lối Thu Xưa - Đường Me Luyến Nhớ

 
(Mùa Thu Bright - Victoria, Úc Châu)

Bài Xướng:

Lối Thu Xưa 

Một mùa thu cũ vẫn đây
Tìm trong nỗi nhớ đong đầy hương xưa
Công viên lá đổ chợt vừa
Gọi mùa vàng chín lòng chưa quên người..
.

Thu Bright nét đẹp rạng ngời
Dù bao năm vẫn trọn đời vấn vương
Lòng say mê đắm lạ thường
Lá ơi dẫn lối người thương trở về...

Kim Oanh
***
Bài Họa:

Đường Me Luyến Nhớ

Thu phong phơn phớt nơi đây
Lá vàng bên ấy ngập đầy lối xưa?
Đường Me Luyến Nhớ sao vừa
Sài-Gòn duyên gặp vẫn chưa phai người...

Tao Đàn Thu ấy nắng ngời
Tình yêu mới chớm vào đời còn vương.
Tóc xanh rồi bạc lẽ thường
Đường xưa lối cũ còn thương, mong về...


Duy Anh

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

Hoàng Hôn Muộn - Thơ: Kim Oanh - Thư Pháp: Quang Hà

 

Thơ: Kim Oanh
Thư Pháp: Quang Hà

Ngày Xưa Thân Ái

(Pleiku 1967 - Quán Café Bắc Hương,  Đường Quang Trung, đối diện nhà thờ Thăng Thiên)


Đêm Thu buồn bã phố Quang Trung
Em về đây bao nỗi nhớ nhung
Đường cũ nhà xưa mòn in dấu
Bóng Lệ Thu biền biệt nơi đâu

Ngỏ câu tâm sự khó vơi sầu
22 tháng 8 đầu mưa ấy
Quẳng thương lòng, lấy gánh nặng vai
Buồn diệu vợi,hoài công xuất giá

Người toan tính bằng lời dối trá
Cả phũ phàng bão táp ập lên
Đôi vai nhỏ bên bờ vực thẳm
Nấm mồ xanh con đẵm lệ rơi

Đời chị đó có gì hạnh phúc
Hy sinh mình lo lúc còn thơ
Đàn em nhò ngu ngơ khờ dại
Mãi xa rồi làm ai tiếc nuối

Mong đất lành suối ngọt ngang qua
Hoa Cúc nở dấu màu em biết
Chị em mình viết lại chuyện xưa
Ngày thân ái mưa vừa kỷ niệm

Trà Bắc Hương tiết kiệm quá trời! *

Đêm Pleiku 9-8-2010
Lê Kim Hiệp

(Tưởng nhớ chị Lệ Thu quán cafe Bắc Hương Pleiku 1970-1973)
* Mỗi tách cafe chỉ được một tách trà Bắc Hương

Thứ Bảy, 16 tháng 8, 2025

Nhớ Ngày Xưa Ấy...- Dư Âm Ngày Cũ

 

Bài Xướng:

Nhớ Ngày Xưa Ấy...

Gom thương nắn nót từng lời
Viết lên nỗi nhớ vẽ vời chữ yêu
Tương tư thả xuống bến chiều
Theo dòng mơ mộng ít nhiều đến ai
Bao mùa phượng thắm vần xoay
Binh minh nắng mới men say như vừa...
Hoàng hôn dù nhạt màu mưa
Nhớ Ngày Xưa Ấy hương thừa ấp yêu

Kim Oanh
***
Bài Họa:

Dư Âm Ngày Cũ

Thương ai chẳng dám ngõ lời
Dáng xưa ngày ấy tuyệt vời mến yêu
Hanh hao vạt nắng buổi chiều
Nghe lòng xao xuyến cho nhiều nhớ ai
Dòng đời bất chợt đổi xoay
Lạc nhau mất dấu tỉnh say mới vừa
Mắt buồn ướt đẫm hạt mưa
Nhớ sao là nhớ chẳng thừa chữ yêu!!!

Nguyễn Cang
(Aug. 13, 2025)

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2025

Gửi Biển Xa...


Gửi ai chút tình biển xa
Gửi thêm hương vị mặn mà đầy vơi
Gửi ai mây trắng lưng trời
Gửi mùi gió biển muối đời chờ nhau
Gửi sóng từng lớp dâng trào
Gửi theo dòng chảy khát khao ra nguồn
Gửi yêu theo ánh vàng buông
Gửi người vẹn giữ vuông tròn trước sau
Gửi hai ta mối tình đầu
Gửi và giữ mãi đẹp màu biển xanh


Kim Oanh
Anglesea 19.12.2024