Cao Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里, tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cầm quân dưới triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).
Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.
閨怨 Khuê Oán
人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri,
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách,
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.
Chú giải
Hắc sơn: Tức giặc Hoàng Cân cuối thời Đông Hán, do Trương Ngưu Giác cầm đầu, quân sĩ có hàng trăm vạn.
Dịch nghĩa
Người đời vui buồn khó mà biết được!
Chồng dẹp xong giặc ở Núi Đen mới trở về.
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách bình định phương nam,
Tối ngày cứ thúc giục mau may xong áo trận.
Dịch thơ
Nỗi Oán Khuê Phòng
Trần thế buồn vui đoán được gì
Chàng vừa phá giặc Hắc Sơn về
Hôm nay lại hiến bình Nam kế
Áo trận giục em may lẹ đi!
Lời bàn
Cao Biền thay lời vợ oán trách chồng lúc nào cũng để hết tâm trí vào việc đánh giặc và bỏ bê vợ hiền. Câu kết rất khéo, ngụ ý rằng: “(Cả năm vắng nhà), vừa phá xong giặc Hắc Sơn về; chàng (không màng giao hoan với em), chỉ giục em may gấp áo trận để (ngày mai đi) bình định phương Nam!”.
Bài thơ này độc đáo ở điểm: một võ tướng lừng danh tả nỗi lòng của vợ oán mình đã bỏ bê nàng.
Bài thơ còn tiềm ẩn một nỗi ân hận (như một bài thú tội ngoại tình) của một võ tướng với vợ hiền: “Chỉ có mình em chịu cành phòng không gối chiếc; ta, với quyền bính trong tay, vẫn có gái đẹp để vui vầy ngay tại chiến trường”.
Con Cò
***
Khuê Oán, Cao Biền.
Phỏng the than vãn.
Trần thế vui buồn thật khó hay,
Núi Đen chàng dẹp mới về đây.
Bình Nam chiến lược nay dâng kế,
Áo trận đêm ngày giục giã may.
Mỹ Ngọc phỏng dịch.
Jun. 14/2025.
***
Than Oán Khuê Phòng - Cao Biền
Thế sự vui buồn khó biết thay
Hắc Sơn chàng dẹp mới quay về
Nam chinh nay lại dâng mưu kế
Áo trận đêm ngày vội vã may.
Kim Oanh
***
Góp Ý Cho Bài Khuê Oán Của Cao Biền.
Theo Thi Viện, tiểu sử của Cao Biền quá sơ sài. Sau đây là tiểu sử chi tiết hơn một chút: Cao Biền, tự Thiên Lý, người U Châu, sinh năm 821, chết năm 887, được 66 tuổi. Biền là con nhà tướng, giỏi văn chương, nhưng cũng làm tướng giống như ông, cha (Hữu Thần Sách Đô Ngu Hầu của Thần Sách Quân).
Vì có công dẹp Đảng Hạng, được làm Thứ Sử Tần Châu.
Năm 863, làm An Nam Đô Hộ Kinh Lược Chiêu Thảo Sứ.
Năm 865, vì có hiềm khích với Lý Duy Chu, bị xàm tấu, suýt bị tội. Nhưng vì đánh được Nam Chiếu, giết Đoàn Tù Thiên và Chu Đạo Cơ nên không mất chức.
Năm 866, Đường Ý Tông đổi An Nam Đô Hộ Phủ thành Tĩnh Hải Quân, cử Biền làm Tiết Độ Sứ.
Năm 868, về Trường An, làm Hữu Kim Ngô Đại Tướng Quân, rồi Kiểm Hiệu Công Bộ Thượng Thư, Vận Châu Thứ Sử, Thiên Bình Tiết Độ Sứ.
Năm 874, bị sai đi đánh Tây Xuyên.
Năm 875, làm Tây Xuyên Tiết Độ Sứ.
Năm 876, đánh và dẹp yên nước Đại Lễ
Năm 878, làm Kinh Nam Tiết Độ Sứ, rồi làm Tiết Độ Sứ Trấn Hải và Hoài Nam.
Trong thời gian này, Cao Biền có góp sức đánh Hoàng Sào, nhưng không thành công, được cử làm Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ, coi về muối và sắt.
Vì có hiềm khích với Đường Hy Tông, Cao Biền cáo bệnh, không chịu đánh Hoàng Sào.
Năm 882, được phong làm Thị Trung, nhưng mất chức Diêm Thiết Chuyển Vận Sứ.
Trong nhiều năm, Cao Biền chỉ lo tranh chấp quyền lực với Lã Dụng Chi, Tất Sư Đạc, Tần Ngạn, đánh nhau lung tung. Đến năm 887, Tần Ngạn sai người tới giết Cao Biền và toàn gia.
Nhìn tiểu sử Cao Biền, mình mới hiểu là Cao lo chiến trận, công danh, không còn thì giờ cho vợ nên trong lòng có chút hối hận, mà làm bài Khuê Oán, thay vợ tỏ nỗi lòng của nàng.
Cao Biền là người có rất nhiều huyền thoại ở Việt Nam, như chôn đậu thành binh sĩ, cưỡi diều đi coi địa lý, trấn yểm hay phá các long mạch của mình..
Năm 866, Biền làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, trực tiếp cai trị Việt Nam.
Lý Nguyên Hy đã đắp La Thành, nhưng nhỏ và không kiên cố. Cao Biền đắp Đại La Thành năm 866, rất rộng lớn, phong Long Đỗ làm thành hoàng.
Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô về đây, vì thấy rồng bay lên nên đổi tên là Thăng Long, vẫn giữ Long Đỗ làm thành hoàng, phong Cao Biền làm Cao Vương.
Trong đền Bạch Mã ở Hà Nội, bên cạnh tượng Long Đỗ, có tượng một người cưỡi ngựa trắng, người ta cho đó là Cao Biền.
Bài thơ ngắn, dễ hiểu, không có chữ khó. Hắc Sơn, ÔC theo Thi Viện, nói rằng chỉ giặc khăn vàng, cuối đời Hán. BS không biết nên phải chấp nhận, nhưng có 2 Hắc Sơn, một ở Tân Cương, phía Tây Bắc của Tầu, là nơi đánh nhau với Hung Nô, mà Trần Đào nhắc đến trong bài Lũng Tây Hành kỳ 4.
Hắc Sơn chỉ khăn vàng chắc ở Trực Lệ (Sơn Đông?). Người lập ra giặc khăn vàng là Trương Giác, không phải Trương Ngưu Giác như Thi Viện và ÔC. Ngưu Giác chỉ là một đầu mục của Trương Giác.
Đây là bài dịch của BS :
Khuê Oán Của Cao Biền.
Nhân thế vui buồn khó biết thay,
Hắc Sơn dẹp giặc mới về đây,
Hôm nay dâng kế bình nam nữa,
Áo trận tối ngày thúc dục may.
Bát Sách.
(Ngày 15/06/2025)
***
Nguyên tác: Phiên âm:
閨怨-高駢 Khuê Oán - Cao Biền
人世悲歡不可知 Nhân thế bi hoan bất khả tri
夫君初破黑山歸 Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
如今又獻征南策 Như kim hữu hiến chinh nam sách
早晚催縫帶號衣 Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y
Vạn Thủ Đường Nhân Tuyệt Cú - Tống - Hồng Mại 萬首唐人絕句 -宋-洪邁
Ngự Định Toàn Đường Thi - Thanh - Thánh Tổ Huyền Diệp 御定全 唐詩-清-聖祖玄燁
Ghi chú:
Cao Biền: danh tướng nhà Đường, có thời làm đô hộ An Nam. Xem thêm Cao Biền – Wikipedia tiếng Việt
Khuê oán: than vãn của người phụ nữ sống cô đơn, lo lắng, bực bội...
Nhân thế: thế giới loài người, cuộc sống
Bi hoan: vui buồn, đề cập đến tất cả các loại cảm xúc của con người
Hắc Sơn: địa danh, nay là ở Cẩm Châu 錦州, Liêu Ninh. Đây là vùng nông dân nổi dậy chống nhà Hán năm 184 do Trương Ngưu Giốc 張牛角 thống lãnh, còn được gọi là loạn Hoàng Cân 黃巾之亂 hay giặc Khăn Vàng.
Chinh Nam: chiến tranh chinh phục miền nam Trung Hoa, có thể liên quan đến trấn an và cai trị An Nam
Tảo vãn: sáng tối, sớm muộn
Hiệu y: áo quần của binh sĩ, một bộ đồng phục được đánh số
Dịch nghĩa:
Khuê Oán Oán Hận Phòng The
Nhân thế bi hoan bất khả tri
Thật khó hiểu được niềm vui và nỗi buồn của con người!
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy
Chồng tôi mới trở về nhà sau khi dẹp xong giặc ở Hắc Sơn.
Như kim hữu hiến chinh nam sách
Hôm nay lại vừa trình lên kế sách chinh phục miền Nam,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y
Tối ngày cứ kêu gọi mọi người mau may quần áo trận.
Bình luận:
Ai cũng biết Cao Biền là một danh tướng nhà Đường, từng dẹp Bắc đánh Nam. Nội dung bài thơ hơi gượng ép vì mâu thuẫn với cuộc sống của người làm thơ. Bài thơ này chủ yếu miêu tả nỗi vui buồn và khao khát trong lòng của người phụ nữ có chồng là chiến binh xa nhà. Nàng khao khát và mong đợi chồng về, nhưng bất lực không đoán trước được thời cuộc, niềm vui và nỗi buồn của thế gian. Nhưng chính người chồng là nguyên nhân của chia ly vì muốn lập công danh. Mới về nhà lại chuẩn bị ra đi theo ý trong câu 3 và 4.
Dịch thơ:
Oán Hận Phòng The
Thể thất ngôn:
Cuộc sống vui buồn khó biết thay,
Giặc yên chàng mới về nhà đây.
Hôm nay Nam tiến chàng dâng kế,
Áo trận sớm chiều thúc giục may.
Thể song thất lục bát:
Ai đoán được vui buồn thế cuộc,
Giặc mới yên chàng được về nhà.
Hôm nay kế hoạch lại ra,
Miền Nam xâm lược dân ta khổ dài.
Sorrow of a Woman by Gāo Pián
The sorrows and joys of people are unpredictable.
My husband has just returned home from conquering a peasants’ uprising at Black Mountain.
Now he is offering a plan to conquer the south lands,
Day and night, he urges the completion his battle garments.
Phí Minh Tâm
***
Góp ý của Lộc Bắc:
Từ khi đến với Đường thi và nhờ có Internet tôi mới biết thêm nhiều điều về Cao Biền. ngoài việc là một danh tướng có thời cai trị nước ta, ông còn là một nhà thơ khá tiếng tăm. Lúc nhỏ tôi thường nghe bà nội và mẹ tôi kể tài phù thủy của ông và những điều ông làm khi cai trị nước ta. Chuyện kể từ lâu nay không còn nhớ rõ, nhưng nội dung thì tương tự như những trích đoạn từ Internet như sau:
Truyền thuyết Cao Biền với Thần Long Đỗ. Xưa Cao Biền Nhà Đường, làm An Nam đô hộ phủ, khi xây thành Đại La, một hôm đi ra chơi cửa Đông, thấy mây năm sắc từ đất đùn lên, ánh sang chói mắt, có bậc dị nhân cưỡi con rồng đỏ, tay cầm kim - giảm, lượn lờ theo mây, hồi lâu chẳng lặn. Biền kinh sợ định yểm. Đêm đến Biền nằm mơ thấy một vị thần tướng cưỡi ngựa trắng, từ trên trời tới thẳng Cao Biền mà nói rằng:" Ta là thần Long Đỗ ở đây đã lâu, nghe tin ông xây thành Đại La, nên đến gặp nhau cớ sao phải yểm". Biền kinh sợ giật mình tỉnh giấc than rằng:" Ta chẳng thể chinh phục được người phương xa sao! Cớ sao mà đến nỗi có yêu quái như vậy!". Bèn làm bùa bằng đồng để yểm. Đêm đó mưa to sấm chớp đùng đùng. Hôm sau ra xem thì thấy bùa đồng đều bị nát thành tro bụi. Biền càng thấy làm lạ, bèn dựng miếu ở cửa Đông để thờ và sắc phong cho Ngài làm Linh Lang Bạch Mã Tôn Thần."
Thần Long Đỗ đền thờ Bạch Mã Hanoi
Truyền thuyết núi Cánh Diều" (Ninh Bình) kể khi sang Giao Châu, thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, Cao Biền thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy xem địa thế, rồi lập đàn cúng tế lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, sau đó đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Một lần cưỡi diều giấy bay đến Hoa Lư thì bị một đạo sĩ cùng dân chúng dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó núi mang tên Cánh Diều.
Cột đá chùa Dạm, theo truyền thuyết là của Cao Biền.
Thành ngữ "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" thực ra "thoát thai" từ truyền thuyết cùng tên kể chuyện Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh". Biền gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một tên lính. Để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Biền thường nuôi 100 âm binh. Một lần ông ta ở trọ nhà một bà hàng nước, nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương. 100 ngày thắp 100 nén hương sẽ gọi dậy 100 âm binh. Biết được tà ý, bà lão thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Thành ra Biền có đủ 100 âm binh nhưng do "dậy non" nên chẳng làm được trò trống gì...
Lại có "Truyền thuyết mả Cao Biền" kể sau khi trấn yểm Đại La không thành, Biền sợ linh khí nước Nam mà đi mãi về phương Nam, đến tận Phú Yên. Đến một làng nhỏ ven biển thấy có long mạch, Biền bèn sinh sống tại đây rồi giúp dân nhiều việc, xem đất dựng nhà, để mồ mả…Khi chết, Biền được dân làng chôn cất tử tế. Ngày nay, ở huyện Tuy An còn dấu tích mả Cao Biền nằm trên một ngọn đồi. Hình ảnh ấy được sinh động hóa trong câu ca dao:
Nhìn ra thấy mả Cao Biền
Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài
Thần tích làng Phương Nhị kể nhiều về công lao của Cao Biền và nhắc chuyện ông được nhân dân tôn kính gọi là Cao Vương-tên gọi này trùng với câu “thành của Cao Vương” trong Chiếu Dời Đô của của vua Lý Thái Tổ: “Sự tích ngài chép ở trong quốc sử, ngài lưu trấn ở Châu Giao ta 7 năm; dảm (giảm) sưu thuế, bớt tạp dịch, yêu dân như con, cho nên người trong nước điều (đều) kính trọng, mà tôn người là Cao Vương, cũng ví như ông Sĩ Vương về đời Đông Hán, sang làm quan thú Châu Giao ta thuở xưa. Mà dân điều (đều) tôn ngài là Vương. Sau ngài lại đổi về trấn đất Thiên Bình. Ngài có người cháu là ông Cao Tầm, từng theo ngài có công giẹp (dẹp) giặc. Ngài dưng (dâng) sớ về tâu vua, để lấy ông Cao Tầm thay ngài 10 năm”. Thần tích này kể tiếp: “Sau này, nước Nam ta, tưởng nhớ công đức ngài, có tới 3,4 chăm (trăm) xã lập đền thờ ngài; ở hạt tỉnh Bắc Ninh có hơn chăm (trăm) xã thờ ngài, cờ (cầu) đảo việc gì điều (đều) linh nghiệm cả. Chải (Trải) các chiều (triều) vua điều (đều) có sắc phong tặng là Thượng đẳng phúc thần”.
Theo thần phả làng Vạn Bảo (nay là phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội), Cao Biền có một người vợ tên là Lã Thị Nga (còn gọi là Ả Lã, Ả Lã Thị Nương, Lã Đê nương), theo ông sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành Đại La mà ở làng Vạn Bảo dệt lụa và truyền dạy nghề dệt lụa cho dân ở đây, trở thành bà tổ nghề dệt lụa Hà Đông. Cao Biền về Bắc, bà vẫn ở lại Hà Đông. Sau nghe tin Cao Biền mất ở Trung Quốc, bà gieo mình xuống sông tự vẫn. Bà Ả Nương sinh ngày 10/8 Âm lịch, mất ngày 25 tháng Chạp. Sau khi bà mất, được thờ làm Thành hoàng làng tại Đền thờ làng Vạn Phúc.
(Trích từ Internet)
Phỏng dịch bài Khuê Oán của Cao Biền
Oán Phòng Khuê
Trần thế vui buồn khó biết thay
Hắc sơn phá trận mới về đây
Hôm nay hiến kế bình nam chiến
Áo trận tối ngày giục giã may!
Lộc Bắc
Jui25